GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ NĂM 29/9/2005 NGÀY THÁNH THỂ |
2) Thánh Thể là Sự Sống Hiệp Thông nơi việc Cử Hành Thánh Lễ
3) “Vai Trò của Giáo Hội Công Giáo trong Tiến Trình Âu Châu Hội Nhập” (tiếp)
1. Trước
chúng ta đây là phần thứ nhất của bài Thánh Vịnh 134 (135), một bài thánh ca có
bản chất phụng vụ, đan kết với những lời bóng gió, những hồi niệm và những qui
chiếu về các đoạn thánh kinh khác. Thật vậy, phụng vụ thường cấu trúc văn bản
của mình bằng cách sử dụng đại gia sản Thánh Kinh, là nguồn phong phú cho các đề
tài tiết mục cùng với những lời cầu nguyện hỗ trợ cho cuộc hành trình của người
tín hữu.
Chúng ta theo
dõi chiều hướng cầu nguyện của phần nhất này (Ps 134[135]:1-12), phần mở đầu
bằng một lời mời gọi rộng rãi và thiết tha hãy chúc tụng Chúa (câu 1-3). Lời kêu
gọi này được ngỏ cùng thành phần “tôi tớ Chúa, những người đứng trong nhà Chúa,
nơi những cung đường nhà Chúa” (câu 1-2).
Bởi thế chúng ta
đang ở trong bầu không khí sống động của việc tôn thờ mở ra trong Đền Thờ, nơi
đặc biệt cầu nguyện chung. Cảm nghiệm được một cách hiệu nghiệm ở đó có sự hiện
diện của “Thiên Chúa chúng ta”, một vị Thiên Chúa “tốt lành” và “nhân ái”, vị
Thiên Chúa của thành phần được tuyển chọn và của giao ước (câu 3-4).
Sau lời kêu mời
ca ngợi là lời độc diễn loan báo việc tuyên xưng đức tin được bắt đầu bằng mô
thức “tôi biết” (câu 5). Kinh tin kính này sẽ tạo nên bản chất của toàn bài
thánh thi ca, một bài thánh thi ca trở thành một lời công bố sự cao cả của Chúa
(ibid.) là những gì được tỏ hiện nơi các công cuộc tuyệt vời Ngài làm.
2. Quyền
toàn năng thần linh được tiếp tục tỏ hiện nơi toàn thế giới “trên trời và dưới
đất, trong biển khơi và đại dương”. Ngài chính là Đấng làm nên mây trời, chớp
sáng và gió thổi, những thứ như thể được giữ trong “kho” hay nhà chứa (câu
6-7).
Thế nhưng, trước
hết có một khía cạnh khác nơi hoạt động thần linh được cử hành nơi việc tuyên
xưng đức tin ấy. Đó là việc can thiệp lạ lùng vào lịch sử, nơi Đấng Hóa Công tỏ
dung nhan của Ngài ra như Đấng Cứu Chuộc dân Ngài và như vị vương chủ của thế
giới. Những đại biến cố của Cuộc Xuất Hành được thực hiện trước mắt dân Yến
Duyên là những gì được hồi tưởng trong nguyện cầu.
Được đề cập đến
trước hết là việc tưởng nhớ tới một cách tổng hợp và thiết yếu những “tai ương”
của Ai Cập, những cuộc trừng phạt Chúa giáng xuống để khuất phục kẻ đàn áp (câu
8-9). Sau đó là tiếng hò la chiến thắng của dân Yến Duyên sau cuộc hành trình
dài trong sa mạc. Chúng được qui về cho việc can thiệp toàn năng của Thiên Chúa,
Đấng “đánh tan nhiều quốc gia và xoay vần những vị vua quyền năng” (câu 10). Sau
hết là đích điểm hằng được thiết tha trông ngóng và đợi chờ, đó là mảnh đất hứa:
“Ngài đã biến đất đai của họ thành gia sản, một gia sản cho Yến Duyên dân Ngài”
(câu 12).
Tình yêu Thần
Linh được
cụ thể hóa
và hầu như có
thể cảm nghiệm được trong lịch sử với tất cả những thăng trầm khốn khổ và vinh
quang của tình yêu này. Phụng vụ có phận sự làm cho các tặng ân thần linh này
luôn hiện diện và hiệu lực, trên hết là ở nơi việc cử hành cuộc đại vượt qua,
một việc là căn gốc của hết mọi tính cách long trọng khác và là những gì tạo nên
cái biểu tượng cao cả cho tự do và ơn cứu độ.
3. Chúng
ta hãy tiếp tục tinh thần của bài thánh vịnh này cũng như tinh thần chúc tụng
Thiên Chúa của nó, diễn nó lại bằng tiếng của Thánh Clêmentê thành Rôma, khi nó
được âm vang ở lời cầu nguyện dài kết thúc bức thư thánh nhân gửi cho cộng đoàn
Côrintô. Thánh nhân nhận định rằng, như trong bài Thánh Vịnh 134(135), dung nhan
của Vị Thiên Chúa Cứu Chuộc hiện lên, cùng với việc bảo vệ của Ngài, những gì
được tỏ ra cho các cha ông xưa, giờ đây được thể hiện cho chúng ta nơi Chúa
Kitô: “Ôi Chúa, xin hãy chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng tôi, vì sự thiện hảo
của an bình, để bảo vệ chúng tôi bằng bàn tay quyền năng của Chúa và cứu chúng
tôi khỏi mọi tội lỗi bằng cánh tay uy quyền nhất của Ngài, cùng cứu chúng tôi
khỏi những ai thù ghét chúng tôi một cách bất chính. Xin hãy ban thuận hợp và an
bình cho chúng tôi cũng như cho tất cả mọi dân cư trên mặt đất này, như Chúa đã
ban nó cho cha ông chúng tôi khi họ kêu cầu Chúa trong thánh đức, tin tưởng và
chân thật…. Chúng tôi xin tạ ơn Chúa, Đấng duy nhất có thể thực hiện những điều
thiện hảo này và những điều thiện hảo lớn lao hơn nữa cho chúng tôi, tạ ơn nhờ
vị đại tư tế và đại hộ vực linh hồn chúng tôi là Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa được
hiển vinh từ đời nọ đến đời kia, muôn đời muôn kiếp. Amen” (60,3-4;61,3: "Collana
di Testi Patristici" [Collection of Patristic Texts], V, Rome, 1984, pp. 90-91).
Đaminh Maria Cao
tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 28/9/2005
Thánh Thể
là Sự Sống Hiệp Thông nơi việc Cử Hành Thánh Lễ
Trong Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
xác tín Thánh Thể là một Sự Sống Hiệp Thông qua việc Kitô hữu Hiệp Lễ cũng như
bằng Tặng Ân Thánh Thần Người ban cho những ai lãnh nhận Mình Máu Thánh của
Người, ở khoản số 16 và 17 thứ tự sau đây:
• “Hiệu năng cứu độ của hiến tế này được hoàn toàn hiện thực khi lãnh nhận mình
máu Chúa lúc hiệp lễ. Hiến Tế Thánh Thể tự bản chất nhắm đến việc hiệp nhất nội
tâm của tín hữu với Chúa Kitô qua việc hiệp lễ; chúng ta lãnh nhận chính Đấng đã
hiến mình cho chúng ta, chúng ta lãnh nhận thân thể Người đã trao nộp cho chúng
ta trên Thập Giá cũng như lãnh nhận máu Người ‘đã đổ ra cho nhiều người được tha
tội’ (Mt 26:28). Chúng ta được lời Người nhắc nhớ rằng: ‘Như Cha hằng sống đã
sai Tôi và Tôi sống bởi Cha thế nào, thì ai ăn Tôi cũng sẽ sống bởi Tôi như vậy’
(Jn 6:57). Chính Chúa Giêsu đã bảo đảm với chúng ta rằng việc hiệp nhất này, một
thứ hiệp nhất được Người so sánh với việc hiệp nhất sự sống Ba Ngôi, được thực
sự thể hiện. Thánh Thể thực sự là một bữa tiệc Chúa Kitô đã tự hiến mình làm của
dưỡng nuôi chúng ta. Vào lần đầu tiên Chúa Giêsu nói về thứ dưỡng nuôi này,
thành phần nghe Người bấy giờ lấy làm lạ lùng và bối rối khiến Vị Thày này bắt
buộc phải nhấn mạnh đến chân lý khách quan của những lời Người nói: ‘Thật vậy,
thật vậy, Tôi nói cho quí vị hay, trừ phi quí vị ăn thịt Con Người và uống máu
của Người, bằng không quí vị sẽ không có sự sống nơi bản thân quí vị’ (Jn 6:53).
Đây không phải là thứ lương thực bóng bẩy mỹ từ, bởi vì ‘Thịỉt Tôi thực sự là
của ăn và máu Tôi thực sự là của uống’ (Jn 6:55)”.
• “Qua việc chúng ta được hiệp thông với mình máu của Người, Chúa Kitô cũng ban cho chúng ta Thần Linh của Người nữa. Thánh Ephrem viết: ‘Người đã gọi thứ bánh này là thân mình của Người và Người đã làm cho bánh ấy tràn đầy Người cùng với Thần Linh của Người… Ai lấy đức tin mà ăn bánh ấy là ăn Lửa và Thần Linh… Hãy nhận lấy mà ăn, tất cả anh chị em, và hãy ăn Thánh Linh nơi bánh này. Vì đó thật là mình của Tôi nên ai ăn bánh ấy sẽ được sự sống đời đời’ (Sermo IV in Hebdomadam Sanctam: CSCO 413/Syr. 182, 55). … Trong Sách Lễ Rôma, vị chủ tế nguyện rằng: ‘Xin ban cho chúng con là những kẻ được nuôi dưỡng bởi mình máu Người được tràn đầy Thánh Thần của Người, và được trở nên một thân thể, một tinh thần duy nhất trong Chúa Kitô’ (Eucharistic Prayer III). Như thế, nhờ tặng ân Mình Máu của Người, Chúa Kitô làm tăng lên trong chúng ta tặng ân Thần Linh Người đã được tuôn đổ xuống trên chúng ta qua Phép Rửa cũng như đã được ban xuống cho chúng ta như ‘dấu ấn’ qua bí tích Thêm Sức”.
Phụng Vụ Thánh Thể, sau
Phụng Vụ Lời Chúa, trong mỗi Thánh Lễ được chia ra làm ba phần, phần dâng lễ,
phần hiến lễ và phần hiệp lễ. Nếu phần Hiến Lễ là phần của Mầu Nhiệm Thánh Thể
liên quan đến Hy Tế Thập Giá được Giáo Hội, qua vị chủ tế, hiến dâng lên Chúa
Cha, thì phần Hiệp Lễ là phần của Mầu Nhiệm Thánh Thể liên quan đến Sự Sống Hiệp
Thông, được Giáo Hội, qua vị chủ tế, cũng như qua các thừa tác viên Thánh Thể
hay thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ, ban phát cho những tín hữu xứng đáng và
tin tưởng lãnh nhận Hy Tế Thập Giá, lãnh nhận Chiên Thiên Chúa.
Đúng thế, Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể không phải chỉ để làm cơ sở cho
Người có thể Hiện Diện Thực Sự, hay để hiện thực hóa Hy Tế Thập Giá của Người
vậy thôi, mà còn để trở thành Sự Sống Hiệp Thông cho chung Giáo Hội cũng như cho
riêng các phần thể của mình mầu nhiệm của Người nữa. Đó là lý do, ngay mấy chữ
đầu của lời truyền phép, lời Người phán để thiết lập bí tích Thánh Thể, Người đã
kêu gọi các tông đồ nói riêng và Giáo Hội nói chung là “các con hãy cầm lấy mà
ăn” và “các con hãy nhận lấy mà uống”.
Dĩ nhiên, về phương diện phụng vụ, phần Thánh Lễ quan trọng nhất là phần Hiến Lễ,
qua tác động chủ tế hiến dâng Thánh Thể lên Chúa Cha ngay sau khi chủ tế truyền
phép Thánh Thể. Thế nhưng, nếu Hy Tế Thập Giá đã vĩnh viễn hiệu thành (x Heb
7:27, 9:12) thì việc hiện thực và tái diễn hy tế này trên bàn thờ không phải chỉ
là việc để làm cho hy tế ấy nên trọn, mà là việc làm cho hy tế ấy trở thành viên
mãn hơn, đúng như ý định Chúa Giêsu muốn, đó là việc Người là Vị “Chủ Chiên nhân
lành thí mạng sống vì chiên cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn
hơn” (Jn 10:10).
Như thế, phần Hiệp Lễ cũng là phần rất quan trọng và cần thiết đối với cả Chúa
Giêsu Thánh Thể lẫn thành phần môn đệ của Người. Đối với Chúa Giêsu Thánh Thể,
Hiệp Lễ là phần rất quan trọng và cần thiết, bởi vì Người muốn thông ban “Sự
Sống viên mãn” phát xuất từ Hy Tế Thập Giá của Người cho thành phần đã tin nhận
Người qua Phép Rửa và đã nhận được “sự sống” từ Người, một sự sống cần phải được
bảo trì và tăng trưởng cho tới khi đạt đến tầm vóc viên mãn của mình trong Chúa
Kitô (x Eph 4:13,15). Đối với Kitô hữu, Hiệp Lễ là phần rất quan trọng và cần
thiết, bởi vì, có tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã tự hiến để Giáo Hội
được thánh hóa trong chân lý (x Jn 17:19), con người và hoạt động của họ mới có
thể được biến đổi một cách mầu nhiệm, như rượu bánh trên bàn thờ “là hoa mầu
ruộng đất và lao công của con người” (lời dâng lễ vật) được biến thể Mình Thánh
và Máu Thánh của Người.
Vì được đón nhận Chúa Giêsu Hiện Diện Thực Sự trong Mình Thánh và Máu Thánh cực
linh của Người mà, theo Chương 4 của Bản Hướng Dẫn “‘Redemptionis Sacramentum’
Về Một Số Vấn Đề Cần Phải Tuân Giữ Hay Tránh Lánh Liên Quan Đến Thánh Thể Cực
Linh”, thành phần thừa tác viên trao ban Thánh Thể cũng như thành phần lãnh nhận
Thánh Thể cần phải để ý đến những điều kiện và tác động xứng đáng sau đây:
• “Theo thông lệ của Giáo Hội thì mỗi người cần phải xét mình kỹ lưỡng và ai ý
thức được trọng tội của mình thì không được cử hành hay lãnh nhận Mình Thánh
Chúa Kitô trước khi lãnh nhận bí tích giải tội, trừ khi có lý do quan trọng như
trường hợp không có cha giải tội; trong trường hợp ấy họ phải nhớ rằng họ buộc
phải ăn năn tội cách trọn, và phải có ý hướng đi xưng tội sớm bao nhiêu có thể”.
(khoản số 81)
• “Các vị thừa tác viên Công Giáo chỉ được ban các Phép Bí Tích cho tín hữu Công
Giáo mà thôi, thành phần cũng chỉ được phép lãnh nhận các phép bí tích này từ
các vị thừa tác viên Công Giáo, trừ những trường hợp được đề cập đến ở khoản
Giáo Luật 844.2-4 và 861.2 (Cf. Code of Canon Law, n. 844.1; Pope John Paul II,
Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia, nn. 45-46: AAS 95 [2003] pp. 463-464;
cf. also Pontifical Council for the Promotion of Christian Unity, Directory for
the application of the principles and norms on ecumenism, La recherche de
l’unité, nn. 130-131: AAS 85 [1993] 1039-1119, here p. 1089). Ngoài ra, không
được tách biệt những điều kiện bao hàm khoản Giáo Luật 844.4, những điều kiện
không thể miễn trừ (Cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de
Eucharistia, n. 46: AAS 95 [2003] pp. 463-464); bởi thế mà cần phải hội đủ tất
cả mọi điều kiện này”. (khoản số 85)
• “’Để cho dấu hiệu Hiệp Lễ được nổi bật tỏ tường hơn nữa như là một việc tham
dự vào Hiến Tế đang được cử hành’ (Missale Romanum, Institutio Generalis, n.
85), tín hữu tốt nhất lãnh nhận bánh thánh được truyền phép ngay trong cùng
Thánh Lễ được cử hành (Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on
the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55; S. Congregation of Rites,
Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 31: AAS 59 [1967] p. 558; Missale
Romanum, Institutio Generalis, nn. 85, 157, 243)”. (khoản số 89)
• “’Tín hữu phải quì hay đứng khi Rước Lễ, tùy theo Hội Đồng Giám Mục ấn định’,
những ấn định như được Tòa Thánh chuẩn nhận. ‘Tuy nhiên, nếu đứng mà Rước Lễ thì
cần phải tỏ ra cung kính trước khi lãnh nhận Bí Tích này, theo các qui tắc tương
tự qui định’ (Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 160)”. (khoản số 90)
• “Mặc dù mỗi người tín hữu bao giờ cũng có quyền lãnh nhận Thánh Thể bằng lưỡi
tùy ý (Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 161), song nếu có người nào
muốn lãnh nhận Bí Tích này bằng tay, ở những miền Hội Đồng Giám Mục được phép
Tòa Thánh cho thực hiện cử chỉ ấy, thì họ có thể lãnh nhận bánh thánh như thế.
Tuy nhiên, phải cẩn thận bảo đảm là bánh thánh được người lãnh nhận rước chịu
trước mặt vị thừa tác viên, không để một ai cầm hình bánh mà đi. Nếu thấy có
nguy cơ bị tục hóa thì không được cho tín hữu Rước Lễ bằng tay (Congregation for
Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Dubium: Notitiae 35 [1999]
pp. 160-161)”. (khoản số 92)
• “Cần phải bảo trì vấn đề cầm đĩa hứng khi cho tín hữu Rước Lễ hầu tránh tình
trạng bánh thánh hay vụn bánh thánh có thể bị rơi xuống (Cf. Missale Romanum,
Institutio Generalis, n. 118)”. (khoản số 93)
• “Không được phép cho tín hữu ‘tự mình… cầm…, tệ hơn nữa, trao… cho nhau’ bánh
thánh hay chén thánh (Ibidem, n. 160). Ngoài ra, về vấn đề này, cần phải loại
trừ việc lạm dụng cho nhau Rước Lễ giữa đôi tân hôn trong Lễ Hôn Phối”. (khoản
số 94).
• “Một tín hữu giáo dân
‘đã lãnh nhận Thánh Thể Cực Linh cũng được phép chịu một lần nữa cùng ngày khi
tham dự Cử Hành Thánh Thể, như được qui định ở khoản Giáo Luật 921.2’ (Cf. Code
of Canon Law, can. 917; Pontifical Commission for the Authentic Interpretation
of the Code of Canon Law, Response to Dubium, 11 July 1984: AAS 76 (1984) p.
746)”. (khoản số 95)
• “Không thể chấp nhận được việc phân phát những tấm bánh không được truyền phép
hoặc các thứ ăn được cũng như không ăn được trong khi cử hành Thánh Lễ hay trước
đó theo cách thức Hiệp Lễ, trái với những qui định của các sách phụng vụ. Việc
làm này không thích hợp với truyền thống của Lễ Nghi Rôma và gây ra lộn xộn nơi
thành phần tín hữu Chúa Kitô liên quan tới tín điều về Thánh Thể của Giáo Hội. Ở
một số nơi nào được phép thực hiện việc ban phép lành cho bánh sau Thánh Lễ để
phân phát thì ở đó cần phải cẩn thận hướng dẫn giáo lý đàng hoàng về việc làm ấy.
Thật vậy, không được tạo ra những việc làm tương tự khác giống như vậy hay không
được sử dụng những bánh bất thánh hiến vào mục đích này”. (khoản số 96)
• “Để thể hiện trước tín hữu một cách rõ ràng hơn nữa dấu hiệu trọn vẹn về việc
tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể, thì kể cả các phần tử giáo dân thuộc thành phần
tín hữu của Chúa Kitô cũng được Rước Lễ dưới hai hình, ở những trường hợp được
qui định trong các sách phụng vụ, một việc rước lễ hai hình được dẫn tiến và
tiếp tục hỗ trợ bằng việc dạy giáo lý xứng hợp liên quan tới những nguyên tắc
tín lý về vấn đề này là những gì được Công Đồng Chung Triđentinô phác định (Cf.
Ecumenical Council of Trent, Session XXI, 16 July 1562, Decree on Eucharistic
Communion, Chapters 1-3: DS 1725-1729; Second Vatican Ecumenical Council,
Constitution on the Sacred Liturgy, Sacrosanctum Concilium, n. 55; Missale
Romanum, Institutio Generalis, nn. 282-283)”. (khoản số 100)
• “Người rước lễ không được phép tự mình nhúng bánh thánh vào rượu thánh, hay
không được rước bằng tay bánh thánh được nhúng rượu thánh. Bánh thánh được dùng
để nhúng vào rượu thánh cần phải được làm bằng chất thể cứng chắc cũng như phải
được truyền phép; triệt để cấm sử dụng bánh bất thánh hiến hay các chất thể khác”.
(khoản số 104)
• “Căn cứ vào những gì được qui định bởi giáo luật, ‘ai ném bỏ những hình Thánh
Thể hay lấy đi hoặc giữ để phạm thánh thì vạ tuyệt thông tiền kết latae
sententiae chỉ có Tòa Thánh mới giải được; ngoài ra, nếu là một giáo sĩ thì chịu
hình phạt khác nữa, kể cả việc bị loại khỏi hàng ngũ giáo sĩ’ (Cf. Code of Canon
Law, can. 1367). Bất cứ hành động nào tự ý và trầm trọng bất kính phạm đến các
hình Thánh Thể đều được coi là thuộc về trường hợp này. Bởi thế, bất cứ ai tác
hành ngược lại những qui tắc ấy, chẳng hạn như vứt bỏ những hình Thánh Thể vào
cống máng đổ đồ thánh, hay vào một nơi bất xứng, hoặc trên đất, đều phải bị
trừng phạt được qui định (Cf. Pontifical Council for the Interpretation of
Legislative Texts, Response to dubium, 3 July 1999: AAS 91 [1999] p. 918). Ngoài
ra, tất cả đều phải nhớ rằng một khi đã hoàn tất việc cho Rước Lễ trong Thánh Lễ,
cần phải giữ những qui định của Sách Lễ Rôma, nhất là những gì thuộc Máu Chúa
còn sót lại, theo qui tắc, phải lập tức được vị Linh Mục hay thừa tác viên khác
uống hết, còn các bánh thánh dư cũng phải được vị Linh Mục rước ở bàn thờ hay
được mang đến chỗ cất giữ Thánh Thể (Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis,
nn. 163, 284)”. (khoản số 107)
• “Thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ có thể cho Rước Lễ chỉ khi nào thiếu Linh
Mục và Phó Tế, chỉ khi nào vị Linh Mục bị ngăn trở vì yếu sức hay tuổi già hoặc
một lý do nào chính đáng khác, hay chỉ khi nào con số tín hữu lên Rước Lễ đông
đến nỗi chính việc cử hành Thánh Lễ sẽ bị kéo dài một cách không nhất thiết (Cf.
S. Congregation for the Discipline of the Sacraments, Instruction, Immensae
caritatis, n. 1: AAS 65 [1973] pp. 264-271, here pp. 265-266; Pontifical
Commission for the Authentic Interpretation of the Code of Canon Law, Responsio
ad propositum dubium, 1 June 1988: AAS 80 [1988] p. 1373; Congregation for the
Clergy et al., Instruction, Ecclesiae de mysterio, Practical Provisions, art. 8
ậ 2: AAS 89 [1997] p. 871). Tuy nhiên, điều này phải được hiểu là việc kéo dài
chút xíu, đối với hoàn cảnh và văn hóa địa phương, vẫn không phải là trường hợp
có đủ lý do”. (khoản số 158)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
“Vai Trò của Giáo Hội Công Giáo trong Tiến Trình Âu Châu Hội Nhập”
6. Giờ đây tôi muốn đề cập tới một cách tổng quan những gì Giáo Hội và Kitô hữu có thể đặc biệt góp phần với Âu Châu, ngoài việc hiện diện thuần túy của họ.
Đối với tôi dường như Giáo Hội có hai chiều kích hoạt động căn bản tương đương với hai khía cạnh hiện hữu của con người, đó là chân lý và tình yêu.
Trước hết, Giáo Hội là “columna et firmamentum veritatis”, là “trụ cột và thành trì của chân lý” (1Tim 3:15). Đức Hồng Y Ratzinger, trong bài diễn từ hiển nhiên đã làm xôn xao dư luận quần chúng, khi nói về xã hội hiện đại, đã không ngần ngại nói về một “thứ độc tài về chủ nghĩa tương đối không công nhận bất cứ điều gì là tối hậu” (6). Có lẽ không có một châu lục nào trên thế giới ngày nay bị thấm nhiễm, đúng hơn, dađg cố gắng tuyên truyền về nỗi ngờ vực về khả năng của con người trong việc chắc chắn đạt tới những chân lý tối hậu, như ở Âu Châu. Bởi thế mà, cùng với ý nghĩ về hữu thể và quan niệm về thiên nhiên đang bị suy yếu đi, nguyên tắc về phẩm vị của con người cũng đang có khuynh hướng bị bại hoại, và chính tính cách sinh động của sự sống con người ở những lúc quan trọng nhất của nó cũng đang ở vào tình thế lâm nguy.
Ngược lại, Giáo Hội, bao giờ cũng thế, là một đấu thủ thực sự của lý trí con người, có khả năng đạt đến chẳng những các chân lý về toán học hay các chân lý của những khoa vật lý tự nhiên, mà còn cả những chân lý tối hậu về nhân loại nữa: những chân lý duy nhất có thể tỏ cho thấy ý nghĩa tối hậu của cuộc sống con người, nhờ vậy mới tạo nên những chiều hướng cao cả về tinh thần, một tinh thần được xuất phát từ tính cách vững chắc của những chân lý ấy, và một tinh thần được soi động để liên lỉ theo đuổi những chân lý này, cho dù ở trong tình trạng bấp bênh của thân phận con người.
Sau nữa, Giáo Hội là “communion caritatis”, là “mối hiệp thông bác ái” (x. Công Đồng Chung Vaticanô II, hiến chế tín lý về Giáo Hội ‘Ánh Sáng Muôn Dân’, 13). Mầu nhiệm hiệp thông Ba Ngôi phản ảnh nơi Giáo Hội, mặc dù một cách hoàn hảo một phần nào đó và theo lịch sử. Giáo Hội là mối hiệp thông của tất cả mọi giáo hội riêng với Giáo Hội Rôma cũng như với nhau. Và Giáo Hội, là Công Giáo – tức là mối hiệp thông toàn cầu – hiện diện nơi các Giáo Hội riêng và được thể hiện nơi các Giáo Hội ấy và qua các Giáo Hội ấy. Nơi Giáo Hội, không như nơi bất cứ một thự cthể con người nào, mối hiệp nhất của tất cả được thể hiện nơi tính cách đa diện của các phần thể. Giáo Hội phản ảnh tính cách khác nhau của các dân tộc, của những loại ngôn ngữ, tập tục và truyền thống nơi các dân tộc này, phản ảnh qua tính cách duy nhất của đức tin và luân lý, cũng như qua một cơ cấu nền tảng duy nhất về pháp chế; và cho dù các lễ nghi của Giáo Hội hết sức đa dạng phụng vụ của Giáo Hội cũng chỉ là một. Mối hiệp nhất của toàn khối này không phải là những gì làm tê liệt, mà là làm sung sức việc tỏa sáng ra tính cách nguyên vẹn của các Giáo Hội địa phương cùng với khả năng của các giáo hội này.
Như thế, Giáo Hội tự bản chất là yếu tố hiệp nhất các dân nước khác nhau. Bởi vậy, không lạ gì Giáo Hội mời gọi Âu Châu hướng tới một mối liên kết hơn nữa về xã hội và chính trị, thế nhưng luôn tôn trọng căn tính riêng biệt của từng quốc gia. Giáo Hội mời gọi Âu Châu hãy thở “bằng hai buồng phổi” (ẩn ngữ này ám chỉ văn hóa Đông và Tậy ở Âu Châu). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần đề cập một cách hết sức tỏ tường đến điều này (7).
Nếu cẩn thận chú ý tới vấn đề đòi hỏi căn bản này, cũng như tới tính cách cảm nhận của quốc gia thuộc những xứ sở khác nhau, thì Âu Châu đã không phải trải qua một vụ bỏ phiếu tiêu cực về Bản Hiệp Ước Hiến Pháp được long trọng ký nhận ở Rôma ngày 29/10/2004, một vụ bỏ phiếu tiêu cực từ hai quốc gia thành lập nên nó.
Giáo Hội còn là “communion caritatis”, “una et catholica”, tức là “mối hiệp thông bác ái”, “duy nhất và công giáo” theo ý nghĩa triển ngôn: “từ Abel cho tới Giêrusalem thiên quốc” (x. ‘Ánh Sáng Muôn Dân’, 2). Quá khứ hiện diện chẳng những như ký ức của những gì không còn đã và đang, mà còn là những gì đã xẩy ra trong quá khứ tiếp tục là một thực tại sống động theo chiều hướng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng là vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, vị Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, vị Thiên Chúa của kẻ sống và kẻ chết (x Mt 22:32) (8).
Giáo Hội tiếp tục lợi dụng quá khứ của mình, không bỏ đi một sự gì từ cuộc hành trình lâu dài của mình qua giòng thời gian: từ những gì tốt cũng như những gì Giáo Hội muốn tiếp tục sinh hoa kết trái; song cũng từ những gì xấu nữa, những gì Giáo Hội đã có lý do để xin lỗi và thực hiện việc xin lỗi này (Giáo Hội là một tổ chức duy nhất cho tới nay tỏ ra có khả năng xin lỗi và thứ lỗi). Giáo Hội muốn được thanh tẩy khỏi những gì là xấu xa để tiến bước vào tương lai xứng đáng hơn với nguồn gốc thần linh của mình cũng như với những căn gốc lịch sử của mình.
Trong bối cảnh thiêng liêng cao cả ấy, không lạ gì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngay từ ban đầu của giáo triều mình, đã thúc giục Âu Châu hãy nhận thức những căn gốc của mình. Đây là lời kêu gọi được liên tục lập đi lập lại, được bày tỏ nơi nhiều lần can thiệp cũng như nơi những cuộc diễn đàn, ở mọi cấp độ. Tiếc thay, nó giống như một hạt giống tốt trên mảnh đất khô cằn và gai góc của một số chính trị gia, thành phần không có được một quan niệm cao quí và an bình về lịch sử; thế nhưng, như đã xẩy ra, nó cũng được chấp nhận như hạt giống tốt trên mảnh đất tốt của rất nhiều con người chung riêng, và nó sẽ không thôi sinh hoa kết quả vào thời điểm của nó. Thật vậy, các căn gốc của Kitô giáo ở Âu Châu đang sống còn và triển nở – ai có thể không nhìn nhận như thế? – chúng đã từng làm phát sinh ra những hoa trái quí hóa trong quá khứ; chúng đang làm như thế hôm nay đây ngay trước mắt của chúng ta; và chúng sẽ sinh nhiều hoa trái hơn nữa trong tương lai.
Khi nhớ đến hai chiều kích nồng cốt này nơi hoạt động thực tại của Giáo Hội, người ta cũng cần phải nhớ rằng những chiều kích ấy cũng đang gặp khủng hoảng, do đó đang được khảo sát, trước một hiện tượng lịch sử bắt nguồn chính thức từ Âu Châu: đó là tình trạng tách lìa trầm trọng về cơ cấu xã hội của Kitô hữu xẩy ra vào thế kỷ thứ 16. Sự kiện này ảnh hưởng tới cả hai chiều kích hành động, chiều kích chân lý và chiều kích bác ái. Thế nhưng, cũng cần phải nhớ rằng từ những ảnh hưởng này đã xuất phát những gì tôi xin định nghĩa là “mối khẩn trương đại kết”: tức là việc tìm kiếm mối hiệp nhất trọn vẹn nơi Giáo Hội dĩ nhiên cũng bao gồm cả ước vọng muốn thấy một Âu Châu hiệp nhất. Về vấn đề này, xin cho tôi được dẫn lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Ngày nay đang bừng lên nơi Kitô hữu ở Âu Châu một lương tâm mới, xuất phát từ trách nhiệm đặc biệt của họ trong việc kiến tạo một Âu Châu hiệp nhất, một Âu Châu có được hứng khởi và năng lực của mình từ truyền thống Kitô giáo là những gì liên kết tất cả mọi dân tộc. Đang phát triển nơi anh chị em Kitô hữu ly khai một ước vọng sâu xa muốn tìm lại một lần nữa mối hiệp nhất theo lịch sử của họ, để cùng nhau kiến tạo nên nơi cư trú của gia đình các dân tộc Âu Châu. Mối hiệp nhất Kitô hữu có liên hệ sâu xa với việc thống nhất của châu lục này: đó là ơn gọi của chúng ta và là công việc lịch sử của chúng ta trong thời điểm hiện nay” (9).
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo tín liệu của VIS ngày 21/9/2005