GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 10/9/2006 TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN |
? Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Cuộc Phỏng Vấn với Nhóm Ký Giả Đức Quốc về đủ mọi vấn đề hiện đại liên quan tới ngài và Giáo Hội
? Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Ở Đền Thờ Nhan Thánh, Manoppello, Ý, Thứ Sáu 1/9/2006
? Ngày của Chúa / Dies Domini: Ngày của Giáo Hội / Dies Ecclesiae - Bàn tiệc Thánh Thể; Bữa tiệc Phục Sinh và quây quần huynh đệ
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Cuộc Phỏng Vấn với Nhóm Ký Giả Đức Quốc về đủ mọi vấn đề hiện đại liên quan tới ngài và Giáo Hội
(tiếp 5 Thứ Ba, 6 Thứ Tư, 7 Thứ Năm, 8 Thứ Sáu và 9 Thứ Bảy)
Vấn: Tâu Đức Thánh Cha, vị tiền nhiệm của ĐTC đã phong chân phước và phong thánh cho các Kitô hữu với cả một số lượng khổng lồ. Một số người thậm chí còn nói là quá nhiều đi. Câu hỏi của con ở đây là: Các cuộc phong chân phước và phong thánh chỉ mang lại một điều gì đó mới mẻ cho Giáo Hội khi những con người ấy được thấy như là những mô phạm thực sự. Đức quốc tương đối có ít vị thánh và chân phước so sánh với các quốc gia khác. Có thể thực hiện điều gì để khai triển lãnh vực mục vụ này, nhờ đó các cuộc phong chân phước và phong thánh thực sự mang lại hoa trái?
Đáp: Ban đầu tôi cũng nghĩ rằng con số lớn các cuộc phong chân phước hầu như là những gì quá trớn, và có lẽ chúng ta cần phải tuyển lựa hơn nữa; chọn lựa những vị đã đi sâu vào tâm thức của chúng ta hơn.
Bấy giờ tôi đã nghĩ phân tán ra các cuộc phong chân phước để làm cho các vị ấy trở thành hiển nhiên hơn ở chính các địa điểm các vị xuất phát. Có thể là một vị thánh ở Guatemala không hào hứng đối với chúng ta ở Đức, hay ngược lại; một vị ở Altoetting không hào hứng ở Los Angeles, vân vân?
Tôi cũng nghĩ rằng việc phân tán này thích hợp hơn với đoàn tính của hàng giáo phẩm nữa, với những cấu trúc về đoàn tính, và thật là thích đáng trong việc nhấn mạnh tới vấn đề các quốc gia khác nhau có những nhân vật riêng của mình và những nhân vật ấy đặc biệt hiệu lực ở những quốc gia này.
Tôi cũng thấy những cuộc phong chân phước này ở các địa điểm khác nhau tác động nhiều người và người ta nói rằng: ‘Đây thực sự là một vị của chúng ta!’ Họ cầu khẩn cùng ngài và được tác động. Linh hồn chân phước ấy thuộc về họ và chúng ta sung sướng có được nhiều vị trong các ngài. Để rồi từ từ, qua việc phát triển của một xã hội toàn cầu, chúng ta cũng biết đến các vị nữa, thật là tuyệt vời.
Thế nhưng, tính chất đa dạng nơi lãnh vực này đặc biệt cần phải có nữa, cũng vì chúng ta ở Đức quốc cũng cần phải biết tới các vị riêng của chúng ta và cảm thấy vui mừng vì các vị. Ngoài ra, còn vấn đề phong thánh cho các vị cao cả nêu gương sáng cho toàn thể Giáo Hội.
Theo tôi, các hội đồng giám mục cần phải tuyển chọn, cần phải quyết định những gì tốt nhất đối với các vị được chọn tuyển, những gì vị được hội đồng chọn tuyển đang nói với chúng ta, và các vị được chọn tuyển này phải cho thấy được cái hữu hình gây một ấn tượng sâu xa nơi dân chúng, nhưng đừng có quá nhiều vị được chọn tuyển.
Các hội đồng giám mục có thể thực hiện điều này bằng việc dạy giáo lý, giảng huấn, hay có thể bằng cách chiếu phim ảnh. Tôi có thể nghĩ tới một số phim tuyệt vời. Dĩ nhiên là tôi chỉ biết rõ các Vị Giáo Phụ mà thôi, chẳng hạn cuốn phim về Thánh Âu Quốc Tinh, hay cuốn phim về Thánh Grêgory Nazianzen là con người rất đặc biệt, làm sao ngài lại tiếp tục lẫn tránh các trách nhiệm cao cả đã được trao phó cho ngài, vân vân.
Chúng ta cần nghiên cứu học hỏi: Chẳng những có những trường hợp ghê sợ được chúng ta miêu tả trong các cuốn phim của chúng ta, mà còn có cả những nhân vật lịch sử tuyệt vời không gây chán ngán tí nào mà lại rất hiện đại. Chúng ta đừng dồn nén quá nhiều thứ cho dân chúng, nhưng hãy cống hiến tính cách hữu hình về nhiều nhân vật có tính cách thời sự và truyền cảm thôi.
Vấn: Cả những truyện hài hước về các vị nữa sao? Vào năm 1989, ở Munich, ĐTC được trao tặng Giải Karl Valentin Orden. Vấn đề hài hước đóng một vai trò ra sao nơi đời sống của một vị Giáo Hoàng?
Đáp: Tôi không phải là một con người luôn nghĩ ra được những câu truyện tếu. Thế nhưng, tôi nghĩ rất cần để làm sao có thể thấy được cả cái phía khôi hài của cuộc sống cùng với chiều kích tươi vui của nó, cũng như đừng coi mọi sự như là những gì quá ư là thê thảm.
Theo tôi nó cũng cần cho cả thừa tác vụ của tôi nữa. Một cây bút có lần đã nói rằng các thiên thần có thể bay được là bởi vì các vị không coi gì là quá nghiêm trọng hết. Chúng ta cũng có thể bay một chút nếu chúng ta không nghĩ chúng ta là thành phần thật quan trọng.
Vấn: Tâu Đức Thánh Cha, khi có một việc làm quan trọng như của ĐTC, thì ĐTC bị theo dõi nhiều hơn. Người ta nói về ĐTC. Con đã đọc và con cảm thấy giật nẩy mình trước những gì được nhiều nhận định gia nói rằng Giáo Hoàng Biển Đức XVI khác với Đức Hồng Y Ratzinger. Vậy xin cho phép con mạn phép hỏi ĐTC cảm thấy chính bản thân mình ra sao?
Đáp: Tôi đã từng bị phân mảnh một số lần khác nhau: giai đoạn đầu tiên của tôi làm giáo sư với giai đoạn chuyển tiếp, rồi giai đoạn đầu làm hồng y với giai đoạn kế tiếp. Giờ đây lại xẩy ra một phân chia mới.
Dĩ nhiên là các hoàn cảnh và các trường hợp, và thậm chí dân chúng là những gì ảnh hưởng đến anh chị em, vì anh chị em đảm nhận những trách nhiệm khác nhau. Cứ cho là cá tính căn bản của tôi và thậm chí nhãn quan căn bản của tôi có tăng trưởng đi nữa thì tôi vẫn y nguyên nơi hết mọi sự thiết yếu. Tôi lấy làm vui mừng là có một số khía cạnh chưa từng được nhận thấy lúc đầu giờ đây đã tỏ hiện.
Vấn:
ĐTC có thể nói rằng ĐTC thích những gì ĐTC đang làm hay chăng, những việc ấy
không phải là một gánh nặng đối với ĐTC?
Đáp: Nói như vậy là quá trớn, vì tôi thực sự là mỏi mệt. Thế nhưng, dù sao tôi cũng cố gắng để tìm được niềm vui cả ở chỗ này nữa.
Tóm lại: Nhân danh thành phần hữu nghị của mình, tôi thành thực cám ơn anh chị em về cuộc nói chuyện này, về chuyện ‘thế giới trước’ này. Chúng ta hướng tới cuộc viếng thăm Bavaria Đức Quốc tới đây. Tạm biệt.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Ở Đền Thờ Nhan Thánh, Manoppello, Ý, Thứ Sáu 1/9/2006
(Trước khi vào Đền Thánh này, ĐTC đã nói với những người tụ tập ở bên ngoài mấy lời, trong đó có câu:)
“… Như các Thánh Vịnh nói, tất cả chúng ta đang ‘tìm kiếm Dung Nhan Chúa’. Và đó cũng là ý nghĩa của việc tôi viếng thăm đây. Chúng ta hãy cùng nhau tìm cách nhận biết Dung Nhan Chúa mỗi ngày một hơn, và nơi Dung Nhan của Chúa, chúng ta hãy tìm cái động lực yêu thương và hòa bình là những gì cũng tỏ cho chúng ta thấy con đường của đời sống chúng ta… ”.
(ĐTC đã chính thức mở đầu bài huấn từ của mình ĐTC bằng những lời cám ơn và chào hỏi những người liên hệ với Đền Thánh này, như vị Tổng Giám Mục và các cha Dòng Capuchin, cũng như thành phần tu sĩ và chủng sinh hiện diện)
Trong cuộc dừng chân nguyện cầu vừa rồi, tôi đã nghĩ đến hai vị tông đồ tiên khởi, những vị được thúc đẩy bởi Thánh Gioan Tẩy Giả, đã theo Chúa Giêsu đến bờ Sông Dược Đăng, như chúng ta đọc thấy trong đoạn mở đầu của Phúc Âm Thánh Gioan (x 1:35-37).
Vị thánh ký này thuật lại rằng Chúa Giêsu quay lại mà hỏi họ: ‘Các anh đang tìm kiếm gì đó?’ Và các vị đã trả lời Người rằng: ‘Thưa Thày… Thày hiện đang ở đâu?’ Rồi Người nói với các vị: ‘Hãy đến mà xem’ (x Jn 1:38-39).
Vào chính ngày hôm đó, hai vị đã theo Người có được một cảm nghiệm không thể nào quên nổi, một cảm nghiệm khiến các vị phải nói rằng: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai’ (Jn 1:41).
Đấng mà trước đó ít tiếng đồ hồ, họ đã nghĩ chỉ là một ‘vị tôn sư’ vậy thôi bấy giờ chiếm được một căn tính rất chính xác, đó là căn tính của một Đức Kitô hằng trông đợi qua bao thế kỷ. Thế nhưng, sự thật thì trước mắt những vị môn đệ này là cả một cuộc hành trình dài biết bao!
Các vị thậm chí không thể nào nghỉ được mầu nhiệm về Giêsu Nazarét sâu xa biết là chừng nào và khôn dò, khôn thấu đến đâu, nghĩ được về ‘Dung Nhan’ của Người ra sao, để rồi, thậm chí sau 3 năm sống với Chúa Giêsu, một người trong các vị là Philiphê đã phải nghe Người nói trong Bữa Tiệc Ly rằng: ‘Thày đã chẳng ở với con đã bao nhiêu lâu mà con chưa biết Thày hay sao Philiphê?’ Thế rồi những lời gồm tóm cái mới mẻ nơi mạc khải của Chúa Giêsu đó là: ‘Ai thấy Thày là thấy Cha’ (Jn 14:9).
Chỉ sau cuộc khổ nạn của Người, lúc các vị gặp gỡ Người phục sinh, lúc mà Thần Linh soi động tâm trí của các vị, các tông đồ mới hiểu được ý nghĩa của những lời Chúa Giêsu đã nói với các vị mà nhận biết Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai được hứa hẹn đến để cứu chuộc nhân loại. Bấy giờ các vị mới trở thành những sứ giả bất khuất của Người, những chứng nhân can trường của Người cho đến nỗi chịu tử đạo.
‘Ai thấy Thày là thấy Cha’. Phải, anh chị em thân mến, để ‘thấy Thiên Chúa’, cần phải biết Chúa Kitô và mình được Thần Linh là Đấng dẫn tín hữu ‘vào tất cả sự thật’ (x Jn 16:13) khuôn đúc. Những ai gặp gỡ Chúa Giêsu, thành phần được Người thu phục và sẵn sàng theo Người cho đến độ hiến mạng sống vì Người, mới cảm nghiệm được Người một cách thân tình, như Người đã thực hiện trên cây thập tự giá, vì chỉ có ‘hạt lúa miến’ rơi xuống đất chết đi mới trổ sinh ‘nhiều hoa trái’ (Jn 12:24).
Đó là đường lối của Chúa Giêsu, đường lối của một tình yêu trọn vẹn thắng vượt sự chết: Ai đi theo đường lối này mà ‘ghét sự sống mình trên thế gian này thì sẽ giữ được nó cho sự sống trường sinh’ (Jn 12:25). Nói cách khác, họ sống trong Thiên Chúa ngay trên trái đất này, một cuộc sống được thu hút và biến đổi bởi ánh quang rạng ngời từ Dung Nhan của Người.
Đó là cảm nghiệm của những người bạn chân tình của Thiên Chúa, của các thánh nhân, thành phần mà, nơi những người anh em, nhất là nơi những kẻ bần cùng và khẩn thiết nhất, đã nhận ra và yêu thương Dung Nhan của vị Thiên Chúa được họ thiết tha chiêm ngắm hằng giờ khi nguyện cầu. Đối với chúng ta, các vị là những mẫu gương sáng phấn khởi để bắt chước; các vị bảo đảm với chúng ta rằng nếu chúng ta theo đường lối ấy, đường lối yêu thương, một cách trung thành, thì cả chúng ta nữa, như thánh vịnh gia cất tiếng, sẽ được no thỏa bởi sự hiện diện của Thiên Cgúa (x Ps 17[16]:15).
‘'Jesu ... quam bonus te quaerentibus!' – Ôi Chúa Giêsu, Chúa nhân ái là dường nào đối với những ai tìm kiếm Chúa!’ Đó là những gì chúng ta vừa hát lên trong bài thánh ca cổ điển: ‘Jesu, dulcis menoria’ (Giêsu, chính là tâm tưởng của anh chị em), lời ca được một số người cho là của Thánh Bênađô.
Đó là bài thánh ca có được một tính cách sống động hiếm có nơi đền thánh được cung hiến cho Thánh Nhan này, bài thánh ca gợi nhớ tới bài Thánh Vịnh 23[24]: ‘Đó là thế hệ của những ai tìm kiếm Ngài, thành phần tìm kiếm dung nhan Vị Thiên Chúa của Giacóp’ (câu 6).
Thế nhưng, đâu là ‘thế hệ’ của những kẻ tìm kiếm Dung Nhan Thiên Chúa, thế hệ nào đáng ‘tiến lên núi Chúa’ và ‘đứng trong nơi thánh của Ngài’ đây?
Thánh Vịnh gia giải thích rằng: Nó bao gồm những ai có ‘bàn tay thanh sạch và tấm lòng trinh khiết’, thành phần không ăn nói điêu ngoa, thành phần không ‘thề nguyền gian trá’ với cận nhân của mình (x các câu 3-4). Bởi thế, để được dự phần vào mối hiệp thông với Chúa Kitô và chiêm ngưỡng Nhan Ngài, để nhận ra Dung Nhan của Chúa nơi các khuôn mặt của người an hem mình cũng như trong các biến cố hằng ngày, chúng ta cần phải có ‘bàn tay thanh sạch và con tim tinh tuyền’.
Bàn tay thanh sạch, tức là một đời sống được soi động bởi sự thật yêu thương thắng vượt những gì là lạnh lùng dửng dưng, là ngờ vực, là sai lầm và vị kỷ; và con tim tinh tuyền cũng là những gì thiết yếu nữa, những con tim ngất ngây trước vẻ đẹp thần linh, như Chị Thánh Têrêsa Nhỏ thành Lisieux đã nói trong kinh nguyện cầu cùng Thánh Nhan, những con tim được niêm ấn bằng dấu tích của Thánh Nhan Chúa Kitô.
Quí linh mục thân mến, nếu sự thánh thiện của Dung Nhan Chúa Kitô vẫn là những gì sâu đậm nơi anh em, những vị mục tử của đàn chiên Chúa Kitô, thì đừng sợ: Thánh phần tín hữu được ủy thác cho an hem chăm sóc cũng sẽ được lây nhiễm và biển đổi bởi sự thánh thiện của Dung Nhan này nữa.
Cả anh em chủng sinh, những người đang được huấn luyện để trở thành những hướng đạo viên hữu trách của dân Kitô Giáo, đừng để mình bị thu hút bởi bất cứ một sự gì khác ngoài Chúa Giêsu và ước vọng phục vụ Giáo Hội của Người.
Tôi cũng muốn nói như thế với cả anh chị em tu sĩ, để các hoạt động của anh chị em được phản ảnh hiển nhiên sự thiện hảo và tình thương thần linh.
‘Ôi Chúa, con tìm kiếm Dung Nhan Chúa’: Việc tìm kiếm Dung Nhan Chúa Giêsu cần phải là niềm ước mong của tất cả mọi Kitô hữu chúng ta; thật thế, chúng ta là ‘thế hệ’ tìm kiếm Dung Nhan Ngài trong thời đại của chúng ta đây, Dung Nhan của ‘Vị Thiên Chúa Giacóp’. Nếu chúng ta kiên trì trong việc tìm cầu Dung Nhan Chúa, thì vào cuối cuộc hành trình trần thế của mình, Người, Chúa Giêsu, sẽ là niềm vui vĩnh hằng của chúng ta, là phần thưởng và vinh quang muôn đời của chúng ta: "Sis Jesu nostrum gaudium, qui es futurus praemium: sit nostra in te gloria, per cuncta semper saecula."
Đó là niềm tin tưởng đã tác động các thánh ở miền đất của anh chị em đây, trong số đó, tôi xin đặc biệt nhắc đến Thánh Gabriel Đức Mẹ Sầu Bi và Thánh Camillus de Lellis; việc chúng ta kính nhớ và nguyện cầu được ngỏ cùng các vị.
Thế nhưng, giờ đây chúng ta hãy hiến một tư tưởng biệt kính ‘Nữ Vương toàn thể chư thánh’, đó là Trinh Nữ Maria, Vị chúng ta tôn kính ở các đền thánh và nguyện đường khác nhau khắp các thủng lũng và núi đồi của miền đất Abruoãi. Chớ gì Đức Mẹ, nơi dung nhan của Mẹ – hơn bất cứ nơi một tạo vật nào khác – chúng ta có thể nhận ra những đường nét của Lời Nhập Thể, trông coi các gia đình cũng như các giáo xứ và các thành phố cùng các quốc gia trên toàn thế giới.
Chớ gì Người Mẹ của Đấng Hóa Công cũng giúp chúng ta biết tôn trọng thiên nhiên tạo vật, một tặng ân cao cả của Thiên Chúa mà chúng ta có thể ca ngợi ở nơi đây, khi nhìn thấy những ngọn núi tuyệt vời chung quanh chúng ta. Tuy nhiên, tặng ân này càng ngày càng bị nguy cơ trầm trọng suy thoái môi trường, bởi thế cần phải được bênh vực và bảo vệ. Đây là những gì hết sức khẩn trương, như ĐTGM Force đã nhận định và được nhấn mạnh một cách thích đáng bởi Ngày Suy Nghĩ và Nguyện Cầu cho Việc Bảo Trì Tạo Sinh, một ngày đang được Giáo Hội ở Ý cử hành vào chính hôm nay đây.
Anh chị em thân mến, trong khi cám ơn anh chị em một lần nữa về sự hiện diện của anh chị em và các quà tặng của anh chị em, tôi xin Phúc Lành của Thiên Chúa xuống trên anh chị em cũng như trên tất cả mọi người thân yêu của anh chị em, với công thức thánh kinh xưa kia: ‘Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em và gìn giữ anh chị em: Xin Chúa làm cho dung nhan của Ngài chiếu tỏa trên anh chị em và tỏ ra ưu ái với anh chị em: chớ gì Chúa ngước mặt của Ngài về phíc anh chị em và ban cho anh chị em được bình an’ (x Num 6:24-26). Amen!
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
7/9/2006
Ngày của Chúa / Dies Domini: Ngày của Giáo Hội / Dies Ecclesiae - Bàn tiệc Thánh Thể; Bữa tiệc Phục Sinh và quây quần huynh đệ
Tông Thư Dies Domini của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của văn khố Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_letters/documents/hf_jp-ii_apl_05071998_dies-domini_en.html
(loạt bài về Chúa Nhật cho các Chúa Nhật kể từ Chúa Nhật 23/4/2006)
Bàn tiệc Thánh Thể
42. Bàn tiệc Lời Chúa tất nhiên dẫn đến bàn tiệc Bánh Thánh Thể và sửa soạn cho cộng đồng sống những khía cạnh của Lời Chúa, những khía cạnh có một tính cách đặc biệt quan trọng trong việc cử hành Thánh Thể Chúa Nhật. Khi toàn thể cộng đồng qui tụ lại để cử hành “Ngày của Chúa” thì Thánh Thể cho thấy, rõ ràng hơn những ngày khác, như một lời “tạ ơn” cả thể do Giáo Hội đầy Thần Linh dâng về Cha, khi trở nên một với Chúa Kitô và nhân danh toàn thể nhân loại. Nhịp sống của một tuần lễ thúc đẩy chúng ta qui tụ lại để tưởng nhớ biết ơn về những biến cố các ngày vừa qua đi, để kiểm điểm chúng trước ánh sáng của Chúa cũng như để tạ ơn Ngài về vô vàn tặng ân, tôn vinh Ngài “nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần”. Cộng đồng Kitô hữu bởi thế tiến đến chỗ tái nhận thức được sự kiện là tất cả mọi sự được dựng nên nhờ Chúa Kitô (x Col 1:16; Jn 1:3), và trong Chúa Kitô, Đấng đã đến trong thân phận của một tôi tớ để mặc lấy và cứu chuộc thân phận loài người của chúng ta, tất cả mọi sự được phục hồi (x Eph 1:10), nhờ đó chúng được trả về cho Thiên Chúa Cha là Đấng tất cả mọi sự được hiện hữu và có sự sống. Thế rồi, khi đồng thanh thưa tiếng “Amen” theo bài ngợi ca Thánh Thể, Dân Chúa, bằng đức tin và đức cậy, hướng tới cùng đích cánh chung là lúc Chúa Kitô “sẽ trao phó vương quốc cho Thiên Chúa là Cha… để Thiên Chúa là mọi sự cho mọi người” (1Cor 15:24,28).
43. Tác động “hướng lên” này là những gì có sẵn ở nơi mọi việc cử hành Thánh Thể và làm cho tác động ấy thành một biến cố vui mừng, tràn đầy lòng tri ân và niềm hy vọng. Thế nhưng, tác động này đặc biệt thể hiện ở Thánh Lễ Chúa Nhật là vì mối liên hệ riêng của nó với việc tưởng niệm Biến Cố Phục Sinh. Trái lại, việc hân hoan “Thánh Thể” “nâng tâm hồn của chúng ta lên” này là hoa trái của tác động “hạ xuống” của Thiên Chúa với chúng ta, một tác động vĩnh viễn gắn liền với yếu tố hy hiến thiết yếu của Thánh Thể, một diễn đạt cao cả và là việc cử hành mầu nhiệm kenosis (hủy mình ra như không), một tác động hạ xuống ở chỗ Chúa Kitô “tự hạ và vâng lời cho đến chết, dù chết trên Thập Giá” (Phil 2:8).
Thánh Lễ thật sự quả làm hiện thực hy tế Thập Giá. Dưới hình bánh và rượu, những hình dạng được kêu cầu tuôn xuống Thần Linh là Đấng tác động một cách hoàn toàn đặc thù nơi những lời truyền phép, Chúa Kitô hiến mình cho Cha bằng cùng một tác động hy hiến được Người hiến mình trên Thập Tự Giá. “Chúa Kitô, Đấng đã dâng mình một lần là vĩnh viễn một cách đẫm máu trên bàn thờ Thập Giá, được gói ghém và hiến dâng một cách không đổ máu nơi hy tế thần linh được thể hiện trong Thánh Lễ” (70). Chúa Kitô liên kết hy tế của Giáo Hội với hy tế của mình: “Nơi Thánh Thể, hy tế của Chúa Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể thuộc Thân Thể của Người. Đời sống của tín hữu, việc họ chúc tụng, những khổ đau của họ, lời cầu nguyện và hoạt động của họ, đều được liên kết với những điều ấy của Chúa Kitô cũng như với tất cả việc hiến dâng của Người, nhờ đó chúng có được một giá trị mới” (71). Sự thật về việc toàn thể cộng đồng được thông phần vào hy tế của Chúa Kitô đặc biệt hiển nhiên nơi việc qui tụ ngày Chúa Nhật, một việc qui tụ để có thể mang đến bàn thờ tuần lễ đã qua với tất cả mọi nhọc nhằn của con người trong tuần ấy.
Bữa tiệc Phục Sinh và quây quần huynh đệ
44. Tính chất hiệp thông của Thánh Thể đặc biệt cho thấy khi tính chất này được thấy như là một bữa tiệc Phục Sinh, một bữa tiệc mà chính Chúa Kitô trở thành dưỡng chất của chúng ta. Thật vậy, “vì mục đích này, Chúa Kitô đã ký thác cho Giáo Hội hy tế ấy: nhờ đó, tín hữu được thông phần với hy tế ấy, một cách thiêng liêng, trong đức tin và đức mến, và một cách bí tích, nơi bữa tiệc Hiệp Lễ. Việc chia sẻ với Bữa Tối của Chúa bao giờ cũng là việc hiệp thông với Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình cho chúng ta nơi hy tế hiến dâng lên Cha” (72). Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyên rằng tín hữu hãy rước lễ khi tham dự Thánh Thể, miễn là họ hội đủ điều kiện xứng hợp, và nếu nhận thấy mình có tội trọng, thì hãy xin Chúa thứ tha qua Bí Tích Hòa Giải (73), theo tinh thần của những gì được Thánh Phaolô viết cho cộng đồng Côrintô (x 1Cor 11:27-32). Hiển nhiên là việc mời gọi hiệp thông Thánh Thể lại càng thiết tha hơn khi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và các ngày lễ trọng.
Cần phải luôn nhớ rằng việc hiệp thông với Chúa Kitô là việc được gắn liền sâu xa với anh chị em của chúng ta. Việc qui tụ Thánh Thể Chúa Nhật là một việc thể hiện tình huynh đệ, một tình huynh đệ cần phải thể hiện một cách rõ ràng nơi việc cử hành này, trong khi vẫn luôn tôn trọng bản chất của tác động phụng vụ. Tất cả những điều này được bày tỏ bằng những cử chỉ đón nhận cũng như bằng giọng nguyện cầu, để ý tới những nhu cầu của tất cả mọi người trong cộng đồng. Dấu hiệu chúc bình an – theo Lễ Nghi Rôma được đặt một cách ý nghĩa trước hiệp lễ – là một cử chỉ diễn tả một cách đặc biệt kêu gọi tín hữu hãy biểu lộ việc Dân Chúa chấp nhận tất cả những gì đã được hoàn tất nơi việc cử hành này (74), cũng như việc dấn thân yêu thương nhau được thể hiện nơi việc thông phần cùng một tấm bánh duy nhất, ý thức những lời Chúa Kitô đòi hỏi: “Nếu các con hiến dâng của lễ trên bàn thờ mà bấy giờ nhớ lại rằng an hem của các con có điều gì phạm đến các con, thì hãy để của lễ trước bàn thờ và hãy đi làm hòa cùng an hem của các con trước đã rồi hãy đến mà dâng lễ vật” (Mt 5:23-24).
(còn tiếp vào mỗi Chúa Nhật)