|
||||
|
||||
THỨ TƯ 20/2/2008
ĐTC BIỂN ĐỨC XVI
"Chân lý là
gì? Làm sao nhận ra chân lý?"
Bài
Diễn Từ định nói dịp Khai Trường cho Đại Học Rôma La Sapienza Thứ Năm 17/1/2008
Bí Mật
Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo
cho Chúa Giêsu Kitô
Chương VII: Những Phương Trị
Vị Giám Mục Giáo Phận
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả
Phương Thế Cứu Vãn
ĐTC BIỂN ĐỨC XVI
“Chân lý là
gì? Làm sao nhận ra chân lý? … Đâu là những gì hợp lý? Làm thế nào lý trí
cho thấy mình là lý trí đích thực?”
–
“Phân khoa triết học và thần học”
Bài Diễn Từ định nói dịp Khai Trường cho Đại Học Rôma La Sapienza
Thứ Năm 17/1/2008 (tiếp
12/2/2008,
13/2/2008,
14/2/2008,
15/2/2008,
16/2/2008,
19/2/2008) Song song với phân khoa luật học là các phân khoa triết học và thần học, những phân khoa được trao phó cho việc nghiên cứu về toàn diện hữu thể con người, theo đó, cả công việc giữ gìn cho cái cảm quan về sự thật được tồn tại. Thậm chí có thể nói rằng đó là ý nghĩa vĩnh viễn và đích thực của cả hai phân khoa này: đó là làm quản viên cảm thức về sự thật, không để cho con người bị cản trở việc tìm kiếm chân lý. Thế nhưng, làm sao hai phân khoa ấy có thể hoàn thành công việc này được đây? Đó là một câu hỏi cần phải bàn đi bàn lại chi tiết, và là một câu hỏi không bao giờ được v ĩnh viễn nêu lên hay giải quyết. Bởi thế, ở đây tôi cũng không thể thích hợp để đưa ra một câu trả lời, mà là một lời mời gọi hãy tiến bước trên con đường với vấn nạn ấy – một con đường mà dọc theo đó có những con người cao cả đã tranh đấu và tìm kiếm suốt giòng lịch sử, với những câu trả lời của họ cùng với niềm khắc khoải chân lý của họ, một sự thật tiếp tục cho thấy vượt ra ngoài bất cứ một câu trả lời duy nhất nào.
Vì thế, thần học và triết học làm nên một cặp song sinh đặc biệt, không phân khoa nào có thể hoàn toàn tách khỏi nhau, song mỗi một phần khoa vẫn phải bảo trì công việc thích đáng và căn tính thích đáng của mình. Đó là công nghiệp về lịch sử của Thánh Tôma Aquinas – so sánh với những đáp ứng khác nhau của các vị Giáo Phụ tùy theo môi trường lịch sử của các ngài – đã làm sáng tỏ tính cách biệt lập của triết học, và theo đó, cái quyền thích đáng và trách nhiệm của lý trí được tự vấn căn cứ vào khả năng của mình. Khác với những thứ triết lý Tân Plato là những triết lý tôn giáo và triết lý quyện lấy nhau bất khả phân ly, các vị Giáo Phụ đã trình bày đức tin Kitô giáo như là một thứ triết lý đích thực, cũng nhấn mạnh là đức tin này thích hợp với những nhu cầu khẩn trương của lý trí trong việc tìm kiếm sự thật; đức tin là “đáp ứng” sự thật, so sánh với các tôn giáo huyền thoại là những gì đã trở thành thuần túy tục lệ.
Thế rồi, tuy nhiên, với việc xuất hiện của đại học đường, những thứ tôn giáo ấy không còn tồn tại nơi Tây phương, mà chỉ còn duy Kitô giáo, bởi thế, cần phải nhấn mạnh một cách mới mẻ trách nhiệm thích đáng của lý trí, một thứ lý trí không bị đức tin nuốt mất. Thánh Tôma đã chứng tỏ việc làm của mình vào một thời điểm đặc biệt: Vì lần đầu tiên toàn bộ các bản văn triết lý của Aristotle được phổ biến; các triết gia Do Thái và Ả Rập hiện diện như là những sở hữu và tiếp tục đặc biệt cho nền triết lý Hy Lạp. Nhờ đó, Kitô giáo, bằng việc đối thoại cách mới mẻ với lý trí của các tôn giáo khác, với những gì Kitô giáo giao tiếp với, đã phải đấu tranh cho cái hợp lý của mình.
Phân khoa triết lý, một phân khoa, vốn được gọi là “phân khoa nghệ thuật”, cho đến bấy giờ mới chỉ làmột thứ propedeutic cho thần học, bấy giờ trở thành một phân khoa thực sự và thích đáng, một đồng bạn biệt lập của thần học và của đức tin nơi phản ứng ấy. Chúng ta không thể dừng lại nơi đây để thấu triệt cuôc chạm trán bởi đó mà ra. Tôi có thể nói rằng tư tưởng của Thánh Tôma về mối liên hệ giữa triết lý và thần học có thể được diễn tả theo công thức về Kitô học của Công Đồng Chalcedon thế này: triết lý và thần học cần phải liên hệ với nhau “mà không lẫn lộn cũng không tách biệt”. “Không lẫn lộn” nghĩa là cả hai vẫn bảo trì được căn tính thích đáng của mình. Triết lý cần phải thực sự tiếp tục công việc của lý trí theo tính cách tự do thích đáng của mình cũng như theo trách nhiệm thích đáng của nó; nó cần phải nhận thức được những giới hạn của mình, và chính theo chiều hướng ấy cũng nhìn nhận cả tính cách cao sang và bao rộng của nó. Thần học cần phải tiếp tục rút ra từ kho tàng của kiến thức không phải tự nó sáng chế, một kho tàng kiến thức luôn luôn vượt lên trên nó và, vì không bao giờ hoàn toàn triệt thấu được bằng việc suy tư, mà chính vì thế mới gợi ý để suy nghĩ.
Song song với việc “không lẫn lộn” cần phải hiệu lực hóa việc “không tách biệt”, ở chỗ, triết lý không bắt đầu lại từ số không nơi chủ thể suy tư riêng lẻ, mà là liên quan tới một cuộc đối thoại cả thể với sự khôn ngoan của lịch sử, một sự khôn ngoan tiếp tục vừa khôn ngoan vừa chân thành lãnh nhận và phát triển; thế nhưng nó cũng không được khép mình khỏi những gì các tôn giáo, đặc biệt là đức tin Kitô giáo, đã lãnh nhận và truyền lại cho nhân loại như là một dấu chỉ đường. Những gì khác nhau được các thần học gia nói trong giòng lịch sử và cũng là những gì được truyền đạt trong thực hành bởi các thẩm quyền của giáo hội, đã được lịch sử chứng tỏ là sai lầm và ngày nay những điều ấy làm cho chúng ta bối rối. Thế nhưng, đồng thời cũng đúng nữa, đó là lịch sử của các thánh nhân, lịch sử của chủ nghĩa nhân bản đã tăng trưởng trên nền tảng đức tin Kitô giáo, là những gì cho thấy sự thật của đức tin này nơi nguyên tố thiết yếu của nó, nhờ đó, làm cho nó trở thành một thứ mô phạm cho lý trí quần chúng. Thật sự là nhiều điều thần học và đức tin nói chỉ có thể được chấp nhận trong đức tin và bởi đó nó không thể tỏ mình ra như là một thứ nhu cầu khẩn trương đối với những ai vẫn chưa thể chấp nhận đức tin ấy. Tuy nhiên, cũng xác đáng nữa khi sứ điệp của đức tin Kitô giáo lại không bao giờ chỉ là một “tín điều đạo giáo toàn diện” theo chiều hướng của Rawls, nhưng là một quyền lực thanh tẩy đối với chính lý trí, một quyền lực giúp cho lý trí trở thành lý trí hơn. Sứ điệp Kitô giáo, căn cứ vào nguồn gốc của mình, bao giờ cũng là một thứ phấn khích hướng tới chân lý và nhờ đó là một khả năng chống lại những áp đảo của quyền lực và những thứ lợi lộc.
(còn tiếp) Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu của Tòa Thánh Vatican http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/january/documents/hf_ben-xvi_spe_20080117_la-sapienza_en.html (nh ững tiểu đề do người dịch tự phân định)
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tôn Sùng Mẹ Maria: Nội Dung
Việc Tận Hiến Các Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
1. Một việc tận hiến hoàn toàn cho Mẹ Maria
120. Vì tất cả sự hoàn hảo đều ở chỗ chúng ta nên giống, hiệp nhất và thánh hiến cho Chúa Giêsu, mà vấn đề tất yếu ở đây đó là việc tôn sùng hoàn hảo nhất trong tất cả mọi việc tôn sùng đó là việc tôn sùng làm cho chúng ta được nên giống, hiệp nhất và thánh hiến cho Chúa Giêsu cách trọn vẹn nhất. Vậy trong tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa, Mẹ Maria là con người được nên giống Chúa Giêsu nhất . Bởi thế suy ra, trong tất cả mọi việc tôn sùng thì việc tôn sùng Mẹ là việc giúp thánh hiến và nên giống Người hiệu nghiệm nhất. Người ta càng tận hiến cho Mẹ Maria thì càng được thánh hiến cho Chúa Giêsu.
Đó là lý do tại sao việc trọn hảo thánh hiến cho Chúa Giêsu chỉ là việc tận hiến bản thân mình cách trọn hảo và trọn vẹn cho Đức Trinh Nữ, việc tận hiến được tôi chỉ dẫn; hay nói cách khác, nó là việc lập lại cách trọn hảo các lời thề hứa của phép thánh tẩy.
121. Việc tôn sùng này hệ tại việc hoàn toàn hiến mình cho Mẹ Maria để hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu nhờ Mẹ. Nó đòi chúng ta hiến dâng:
Nói cách khác, chúng ta dâng cho Mẹ tất cả những gì chúng ta sở hữu cả về cuộc sống tự nhiên của chúng ta cũng như cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, cùng với hết mọi sự chúng ta sẽ chiếm hữu trong tương lai về lãnh vực tự nhiên, ân sủng và vinh quang trên trời. Chúng ta làm điều này một cách dứt khoát không lưu luyến, cho dù một đồng xu, một sợi tóc, hay một vệc lành nhỏ mọn nhất. Và chúng ta dâng hiến cách vĩnh viễn, không đòi hỏi hay mong đợi một phần thưởng nào để bù lại việc hiến dâng và phục vụ của chúng ta, ngoài niềm vinh dự được thuộc về Chúa nhờ Mẹ Maria và trong Mẹ Maria, mặc dù Người Mẹ của chúng ta không phải là – mà thực sự bao giờ Mẹ cũng là thế – một tạo vật quảng đại nhất và cảm mến nhất trong tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa. (còn tiếp)
Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html
Chương VII: Những Phương Trị
4. Vị Giám Mục Giáo Phận (176-180) (còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Hôn Nhân Gia Đình - Mầu Nhiệm Cao Cả
Phương Thế Cứu Vãn
Đó là lý do, trước hiện trạng đời sống hôn nhân gia đình càng ngày càng bị tấn công và phá sản đến tận gốc rễ như thế, đến biến dạng quá thảm thương như thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong huấn từ ngày 30/1/2003 ngỏ cùng Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán, ở đoạn số 3, đã nhận định về căn nguyên sâu xa của nó và từ đó khuyến dụ phương thức cứu vãn tình thế hết sức khẩn trương này như sau:
Chưa hết, trong huấn từ gửi cho Cuộc Họp Thế Giới Các Gia Đình lần IV, một cuộc họp diễn ra tại Phi Luật Tân ngày Thứ Bảy 25/1/2003, ĐTC Gioan Phaolô II còn phấn khích các đôi hôn nhân Kitô hữu làm tông đồ cho đời sống hôn nhân gia đình nữa:
Tuy nhiên, muốn đáp ứng những lời huấn dụ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trên đây theo chiều hướng vừa ý thức: “cần phải tái nhận thức chiều kích siêu việt được gắn liền với tất cả sự thật về hôn nhân và gia đình”, vừa dấn thân “là ‘tin mừng cho ngàn năm thứ ba’ bằng việc minh chứng một cách sống động và kiên trì cho chân lý về gia đình”, thành phần sống đời hôn nhân gia đình theo tinh thần Kitô giáo, theo vị Giáo Hoàng của văn hóa sự sống này, thì, về phương diện áp dụng thực hành, họ trước hết cần phải thể hiện việc “gia đình cầu nguyện là đường lối vững chắc để tiếp tục liên kết với nhau theo đường lối đúng như ý muốn của Thiên Chúa”, một thể hiện rõ ràng nhất được tỏ ra “bằng việc đọc kinh Mân Côi”, nhờ đó, “các gia đình ‘lấy Chúa Giêsu làm tâm điểm, họ chia vui sẻ buồn với Người, họ đặt các nhu cầu và dự tính của họ trong tay của Người, họ tìm thấy nơi Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến lên’”.
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |