|
||||
|
||||
THỨ BẢY 15/3/2008
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Huấn Từ Ngỏ Cùng
Các Phần Tử Pháp Tòa Rota Roma 26/1/2008
(tiếp)
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ
Maria
Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo
cho Chúa Giêsu Kitô
2. Việc tôn
sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô
Thông
Điệp Thánh Thể
Tính Cách Tông Truyền của Thánh Thể
và của Giáo Hội
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II
“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn
nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa"
(4-5)
Huấn Từ của ngày 30/1/2003 với Pháp
Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Huấn Từ Ngỏ Cùng Các Phần Tử Pháp Tòa Rota Roma 26/1/2008
(tiếp THỨ NĂM 13/3/2008; THỨ SÁU 14/3/2008)
Việc thẩm định khách quan về các sự kiện theo chiều hướng Huấn Quyền và luật lệ của Giáo Hội bởi thế là những gì cấu tạo nên một khía cạnh rất quan trọng nơi hoạt động của Pháp Tòa Rôta Rôma và là những gì gây ảnh hưởng lớn trên những thừa tác viên công lý ở những tòa án thuộc Giáo Hội địa phương. Luật pháp học của Pháp Tòa Rôta cần phải được coi như là sự khôn ngoan mẫu mực về pháp lý được hành sử bằng thẩm quyền của một Pháp Đình được Vị Thừa Kế Thánh Phêrô thường trực thiết lập cho thiện ích của toàn thể Giáo Hội. Nhờ công cuộc này mà thực tại về các nguyên cớ hủy hôn được phán quyết một cách khách quan theo các tiêu chuẩn liên lỉ tái khẳng định thực tại bất khả phân ly của hôn nhân, hướng con người nam nữ về dự án của Thiên Chúa Hóa Công và Cứu Độ. Cần phải liên lỉ nỗ lực để đát tới mối hiệp nhất nơi các tiểu chuẩn về pháp lý là những gì chính yếu làm nên đặc tính cho ý niệm về pháp luật học và là một ước định nồng cốt cho hoạt động của nó. Trong Giáo Hội, chính vì tính chất phổ quát và đa đạng của mình về các nền văn hóa theo pháp lý mà Giáo Hội được kêu gọi để hoạt động mà bao giờ cũng gặp nguy cơ xẩy ra “các hình thức địa phương về pháp luật học”, sensim sine sensu, càng ngày càng xa rời với việc dẫn giải chung về luật lệ xác thực cũng như với giáo huấn về hôn nhân của Giáo Hội. Tôi mong thấy thực hiện việc nghiên cứu về các cách thức thích đáng để làm sao cho vấn đề pháp luật học luân phiên càng ngày càng trở nên thống nhất một cách rõ ràng hơn, cũng như có thể hiệu nghiệm chạm tới tất cả những ai hành sử công lý, để bảo đảm việc áp dụng đồng loạt ở tất cả mọi tòa án của Giáo Hội. Cái giá trị của những vụ can thiệp của Huấn Quyền Giáo Hội về các vấn đề hôn phối và pháp lý, bao gồm những Bào Diễn Từ của Giáo Hoàng Rôma ngỏ cùng Pháp Đình Rôta Rôma, cũng cần phải được nhìn theo chiều kích thực tiễn ấy. Chúng là một bản hướng dẫn trong tay cho hoạt động của tất cả mọi tòa án của Giáo Hội. Trong bài Diễn Từ cuối cùng của mình ngỏ với Pháp Đình Rôta Rôma, vị Tiền Nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II của tôi cảnh giác con người trước cái tâm thức thực tiễn trong việc hiểu biết về lề luật, một thứ tâm thức có khuynh hướng phân biệt giữa các luật lệ và phương sách pháp luật học với tín lý của Giáo Hội. Ngài đã khẳng định rằng: “Thật vậy, việc dẫn giải Lời Chúa mộït cách đích thực, được Huấn Quyền Giáo Hội thi hành, có một giá trị pháp lý ở chỗ nó liên quan tới nội dung của luật lệ, mà không đòi hỏi bất cứ một phương án chính thức nào mới có hiệu lực về pháp lý và về luân lý. Để có được một dẫn giải lành mạnh về luật pháp thì không thể nào thiếu được việc hiểu biết toàn bộ các giáo huấn của Giáo Hội và đặt mọi sự khẳng định về hệ thống theo chiều hướng truyền thống. Nhờ đó mới có thể tránh được những dẫn giải tùy ý và méo mó cũng như những bình phẩm chẳng có lợi gì cả” (John Paul II, Address to Roman Rota, 29 January 2005). Biến cố bách niên đây không phải chỉ là việc trang trọng tưởng niệm vậy thôi. Nó sẽ là một cơ hội cho một việc suy nghĩ cần phải kiên cường việc dấn thân của anh chị em, làm cho cơ hội này bừng lên cái ý nghĩa về công lý sâu xa hơn bao giờ hết của giáo hội đó là cái ý nghĩa của một việc thực sự phục vụ cho mối hiệp thông cứu độ. Tôi khuyến khích anh chị em hãy n guyện cầu hằng ngày cho Pháp Đình Rôta Rôma cũng như cho tất cả những ai đang làm việc ở lãnh vực quản trị về pháp lý trong Giáo Hội. Bằng việc chạy đến với việc chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, Speculum iustitiae. Lời mời gọi này dường như chỉ thuần túy là những gì tôn sùng và là một cái gì đó ở bên lề thừa tác vụ của anh chị em; thế nhưng chúng ta không được quên rằng hết mọi sự trong Giáo Hội đều được hoàn thành nhờ quyền lực của việc nguyện cầu, một quyền lực biến đổi toàn thể cuộc đời của chúng ta và làm cho chúng ta tràn đầy niềm hy vọng được Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta. Việc nguyện cầu không thể tách biệt được việc hằng ngày dấn thân hệ trọng và chuyên môn của chúng ta này, sẽ mang lại ánh sáng và sức mạnh, lòng trung thành và việc canh tân thực sự cho đời sống của Cơ Cấu khả kính của anh chị em đây, nhờ đó, ad normam iuris, Vị Giám Mục Rôma hành sử mối quan tâm của mình đối với việc quản trị công lý toàn thể Dân Chúa. Bởi vậy, chớ gì Phép Lành của tôi hôm nay, đầy cảm mến và tri ân, bao gồm cả anh chị em hiện diện nơi đây cũng như tất cả những ai trên thế giới đang phục vụ Giáo Hội và tất cả tín hữu nơi lãnh vực này. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2008/january/documents/hf_ben-xvi_spe_20080126_roman-rota_en.html (những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai: Việc Trọn Hảo Sùng Kính Đức Mẹ
Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô
3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ
166. Ở đâu có Mẹ Maria thì ở đó vắng bóng tên gian ác này. Một trong những dấu hiệu không thể sai lầm là một người được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt thì tỏ ra sùng kính Mẹ Maria, và có thói quen nghĩ và nói về Mẹ. Đó ý nghĩ của một vị thánh, vị đã tiếp tục nói rằng như hơi thở là dấu chứng tỏ cho thấy thân xác chưa chết thế nào thì việc năng tưởng nhớ đến Mẹ Maria và việc tha thiết trao đổi với Mẹ là dấu chứng linh hồn chưa chết trong tội lỗi về đàng thiêng liêng vậy.
167. Vì một mình Mẹ Maria đã đạp nát tất cả mọi thứ lạc thuyết, như chúng ta được Giáo Hội hướng dẫn bởi Thánh Linh cho biết (Office of B.V.M.), mà một người tôi tớ nhiệt thành của Mẹ sẽ chẳng bao giờ bị rơi vào một thứ lạc thuyết hay sai lầm chính thức, cho dù thành phần chỉ trích có thể phản đối điều này. Họ có thể rất bị lầm lạc về hình thức, tưởng giả dối là chân thật hay tưởng tinh thần gian ác là tinh thần tốt lành, thế nhưng họ sẽ ít làm như vậy hơn những người khác. Ngay khi họ khám phá ra lầm lỗi của mình thì họ sẽ không tiếp tục cứ nhất định tin tưởng và theo đuổi những gì họ lầm lạc nghĩ là chân thật nữa.
168. Bởi thế, ai muốn thăng tiến trên con đường thánh đức và nắm chắc được việc gặp gỡ Chúa Kitô chân thực, mà không sợ bị ảo tưởng là những gì chi phối nhiều con người sốt sắng đạo đức, thì hãy chấp nhận việc tôn sùng Mẹ Maria này bằng một tấm lòng dũng cảm và tinh thần hăng say, một việc tôn sùng có thể trước đó họ chưa hề nghe biết. Cho dù là mới mẻ đối với họ hãy để họ tiến vào đường lối tuyệt hảo này mà giờ đây tôi đang tỏ ra cho họ biết. “Ta sẽ tỏ cho con một con đường tuyệt hảo hơn”.
Con đường này được mở lối bởi Chúa Giêsu Kitô, Khôn Ngoan Nhập Thể. Người là vị Đầu Lãnh duy nhất của chúng ta, và chúng ta, chi thể của Người, không thể nào lầm đường lạc hướng khi bước theo Người. Nó là một con đường bằng phẳng dễ đi với đầy những ân sủng, đầy dầu Thánh Linh. Trong việc chúng ta tiến triển trên con đường này, chúng ta sẽ không cảm thấy yếu sức và thoái lui. Nó là một đường lối mau chóng và dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu trong một thời gian ngắn. Nó là một đường lối hoàn hảo không bùn lầy hay bụi bặm hoặc bất cứ một tì vết tồi bại tội lỗi nào. Sau hết, nó là một đường lối đáng tin cậy, vì nó là một trực tuyến và không có vấn đề lệch lạc phải trái song dẫn chúng ta thẳng tới Chúa Giêsu và tới sự sống vĩnh hằng.
Vậy chúng ta hãy đi con đường này và ngày đêm hành trình dọc theo con đường ấy cho tới khi chúng ta đạt tới tầm vóc viên trọn thành nhân của Chúa Giêsu. (còn tiếp)
Thông Điệp Thánh Thể
Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html
31. Nếu Thánh Thể là tâm điểm và là tuyệt đỉnh của đời sống Giáo Hội thì Thánh Thể cũng là tâm điểm và là tuyệt đỉnh của thừa tác vụ tư tế. Bởi thế, bằng một tấm lòng hết sức biết ơn Chúa chúng ta Giêsu Kitô, Tôi xin lập lại rằng Thánh Thể “là lý do chính yếu và trọng tâm của bí tích linh mục, một bí tích hiện hữu một cách hiệu thành vào chính lúc thiết lập Thánh Thể” (63). Các vị linh mục dấn thân thực hiện nhiều hoạt động mục vụ khác nhau. Nếu chúng ta xét đến những điều kiện về xã hội và văn hóa của thế giới tân tiến này, chúng ta sẽ dễ hiểu được các vị linh mục phải đối diện ra sao với chính mối nguy cơ thực sự nơi tình trạng không còn tập trung được nữa giữa cả đống việc khác nhau như vậy. Công Đồng Chung Vaticanô II đã thấy nơi việc bác ái mục vụ mối giây liên kết đời sống và hoạt động của vị linh mục. Công Đồng nói thêm là mối giây ấy “chính yếu được bắt nguồn từ Hiến Tế Thánh Thể là hiến tế bởi thế là tâm điểm và là căn gốc của tất cả đời sống tư tế” (64). Như thế, chúng ta có thể hiểu được tầm vóc quan trọng ra sao, đối với đời sống thiêng liêng của vị linh mục, cũng như đối với thiện ích của Giáo Hội và thế giới, việc linh mục tuân theo khuyến dụ của Công Đồng này trong việc cử hành Thánh Thể hằng ngày: “Cho dù tín hữu không thể hiện diện, thì đó cũng là tác động của Chúa Kitô và của Giáo Hội” (65). Có như thế, vị linh mục mới có thể đối đầu với các thứ căng thẳng hằng ngày đưa đến chỗ thiếu tập trung và các vị sẽ tìm thấy nơi Hiến Tế Thánh Thể, tâm điểm thực sự của đời sống và thừa tác vụ của các ngài, sức mạnh thiêng liêng cần thiết để đối đầu với những trách nhiệm mục vụ khác nhau. Nhờ vậy sinh hoạt hằng ngày của các vị mới thực sự trở thành sinh hoạt Thánh Thể. Tính cách trung tâm điểm của Thánh Thể nơi đời sống và thừa tác vụ của linh mục là căn bản chính yếu của việc cổ võ mục vụ ơn gọi linh mục. Chính ở nơi Thánh Thể mà lời cầu nguyện cho ơn gọi mới là lời cầu nguyện liên kết chặt chẽ nhất với lời nguyện của Chúa Kitô Thượng Tế Đời Đời. Đồng thời việc linh mục chuyên tâm thi hành thừa tác vụ Thánh Thể, cùng với sự tham dự vào Thánh Thể một cách ý thức, chủ động và tốt đẹp của tín hữu, là những gì cống hiến cho giới trẻ một tấm gương và niềm khích lệ mãnh liệt trong việc quảng đại đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa. Việc linh mục nhiệt thành bác ái thi hành mục vụ thường là những gì Chúa dùng để gieo rắc và làm trổ sinh hoa trái nơi tâm can giới trẻ hạt giống ơn gọi linh mục. 32. Tất cả những điều ấy cho thấy buồn thảm và bất thường biết bao cho tình trạng của một cộng đồng Kitô hữu, mặc dù có đủ số tín hữu khác nhau để hình thành một giáo xứ mà lại thiếu linh mục dẫn dắt. Các giáo xứ là những cộng đồng của thành phần lãnh nhận phép rửa, thành phần bày tỏ và thể hiện căn tính của mình trước hết qua việc cử hành Hiến Tế Thánh Thể. Thế nhưng, điều này đòi phải có sự hiện diện của vị tư tế là vị duy nhất có khả năng hiến dâng Thánh Thể với tư cách Chúa Kitô in persona Christi. Ở một cộng đồng thiếu linh mục thì cần phải thực hiện những nỗ lực đứng đắn để làm sao bù đắp tình trạng này, nhờ đó cộng đồng có thể tiếp tục những việc cử hành Chúa Nhật, và những vị tu sĩ cùng giáo dân hướng dẫn anh chị em mình nguyện cầu là thi hành một cách đáng khen vai trò linh mục phổ quát của tất cả mọi tín hữu có được do ơn Phép Rửa. Thế nhưng, những giải pháp như vậy phải được coi là tạm thời mà thôi trong khi cộng đồng chờ đợi linh mục. Những việc cử hành không trọn vẹn tính cách bí tích này trước hết phải tác động toàn thể cộng đồng tha thiết nguyện cầu hơn nữa để xin Chúa sai thợ đến làm mùa (x Mt 9:38). Cũng nên vận dụng tất cả mọi nguồn liệu cần thiết để thực hiện đầy đủ việc mục vụ cổ võ ơn thiên triệu, nhưng vẫn không chiều theo khuynh hướng tìm kiếm những giải pháp hạ thấp các tiêu chuẩn về luân lý và huấn luyện cần thiết của các ứng sinh học làm linh mục. 33. Vì khan hiếm linh mục, các phần tử không có chức thánh thuộc thành phần tín hữu được ủy thác cho việc tham dự vào việc chăm sóc mục vụ ở giáo xứ thì họ phải nhớ rằng, như Công Đồng Chung Vaticanô II dạy, “không một cộng đồng Kitô hữu nào có thể được xây dựng trừ phi cộng đồng ấy có nền tảng và trọng tâm ở việc cử hành Thánh Thể Cực Thánh” (66). Bởi thế, các phần tử ấy có trọng trách làm sao giữ được “cơn đói” Thánh Thể thực sự trong cộng đồng này, nhờ đó nó sẽ không bỏ lỡ một cơ hội cử hành Thánh Lễ nào, cũng bằng việc lợi dụng sự hiện diện tùy lúc của một vị linh mục không bị luật Giáo Hội ngăn cấm cử hành Thánh Lễ. (còn tiếp)
ĐTC Gioan Phaolô II
“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa” Huấn Từ của ngày 30/1/2003 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 14/2/2003)
4. Rất tiếc, vì các hậu quả của nguyên tội, những gì là bản chất nơi mối liên hệ giữa con người nam và nữ đã đi đến chỗ sống theo đường lối không hợp với dự án và ý muốn của Thiên Chúa, và tình trạng tách mình lìa xa Thiên Chúa không thể tránh khỏi kéo theo cả một tình trạng giá trị nhân bản bị hạ giá một cách tương xứng nơi các mối liên hệ về gia đình. Thế nhưng, vào lúc “thời gian nên trọn”, chính Chúa Giêsu đã phục hồi dự án nguyên thủy của hôn nhân (x Mt 19:1-12), nhờ đó, trong tình trạng của bản tính được cứu chuộc, mối hiệp nhất giữa con người nam và nữ chẳng những lấy lại được sự thánh thiện ban đầu, mà còn được thực sự tham dự vào chính mầu nhiệm giao ước của Chúa Kitô với Giáo Hội.
Bức Thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Eâphêsô đã trực tiếp gắn nối đoạn Sách Sáng Thế Ký này với mầu nhiệm ấy: “Vì lý do này mà người nam lìa bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xác thịt (Gn 2:24). Đây là một mầu nhiệm cao cả; tôi cố ý nói đến Chúa Kitô và Giáo Hội” (Eph 5:31-32). Mối liên hệ nội tại này nơi đời sống hôn nhân được thiết lập từ ban đầu của việc tạo thành, và mối hiệp nhất của Lời Nhập Thể với Giáo Hội được tỏ hiện nơi hiệu quả của mình bằng quan niệm về bí tích. Công Đồng Chung Vaticanô II đã diễn tả sự thật của đức tin chúng ta này từ quan điểm của chính những con người thành hôn: “Các đôi phối ngẫu Kitô hữu, bởi bí tích hôn phối, là tiêu biểu cho và được tham phần vào mầu nhiệm của mối hiệp nhất và yêu thương phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người (x Eph 5:32). Bởi thế, các đôi phối ngẫu giúp nhau chiếm đạt sự thánh thiện nơi đời sống hôn nhân của mình cũng như bằng việc chấp nhận con cái và giáo dục con cái. Nhờ đó, với bậc sống và lối sống của mình, họ có một tặng ân riêng nơi Dân Chúa” (Dogmatic Constitution Lumen gentium, n. 11). Mối liên hệ chặt chẽ giữa lãnh vực tự nhiên và siêu nhiên này, ngay sau đó, đã được Công Đồng diễn tả cho thấy liên quan đến đời sống gia đình, một gia đình không tách khỏi hôn nhân và được thấy như là một thứ “giáo hội tại gia” (ibid.).
5. Đời sống và hình ảnh Kitô hữu tìm thấy nơi sự thật này một nguồn ánh sáng khôn cùng. Thật vậy, tính cách bí tích của đời sống hôn nhân là cách thức hiệu nghiệm cho việc tìm hiểu sâu xa hơn nữa mầu nhiệm của mối liên hệ giữa bản tính tự nhiên và ân sủng. Qua sự kiện hôn nhân của thời xưa đã trở thành dấu hiệu và là dụng cụ cho ân sủng của Chúa Kitô trong thời Tân Ước, người ta thấy được dấu chứng của siêu việt tính nội tại nơi tất cả những gì thuộc về hữu thể của con người, nhất là thuộc về mối liên hệ tự nhiên theo tính cách khác biệt song bổ khuyết cho nhau nơi con người nam nữ. Cái con người và thần linh được cấu kết với nhau một cách tuyệt vời.
Ý hệ nặng trần tục ngày nay có khuynh hướng xác nhận các giá trị nhân bản của cơ cấu gia đình nhưng lại tách những giá trị này khỏi những giá trị đạo nghĩa và cho rằng chúng hoàn toàn biệt lập với Thiên Chúa. Thực sự bị ảnh hưởng bởi những lối sống rất hay được thấy nơi các phương tiện truyền thông đại chúng, ý hệ ngày nay đã đặt vấn đề: “Tại sao người phối ngẫu này cứ phải luôn luôn trung thành với người phối ngẫu kia?”, và vấn nạn này, trong những lúc bị khủng hoảng, đã biến thành mối ngờ vực về cuộc sống. Những khó khăn trong đời sống hôn nhân có thể có những hình thức khác nhau, thế nhưng, tựu kỳ trung thì tất cả đều qui về vấn đề yêu thương. Đó là lý do, vấn nạn trước có thể được đặt lại thế này: tại sao bao giờ cũng cần phải yêu người phối ngẫu của mình, ngay cả khi có rất nhiều lý do bề ngoài có thể đi đến chỗ bỏ nhau?
Nhiều câu trả lời có thể được nêu lên; trong số đó, những câu trả lời rất mạnh đó là vì thiện ích của con cái cũng như thiện ích của toàn thể xã hội, thế nhưng, câu trả lời trọng yếu nhất phát xuất từ việc nhìn nhận tính cách khách quan của việc làm vợ chồng là việc được thấy như một món quà tặng trao cho nhau, một việc được chính Thiên Chúa làm cho khả dĩ và bảo toàn. Bởi thế, lý do tối hậu nơi phận sự trung thành yêu thương không còn là gì khác ngoài cái vốn là nền tảng cho giao ước của Thiên Chúa đối với con người, đó là việc Thiên Chúa thủy chung. Để lòng có thể trung thành với người phối ngẫu của mình, thậm chí ngay cả trong những trường hợp gay cấn nhất, con người cần phải chạy đến với Thiên Chúa, tin tưởng là mình sẽ được Ngài hỗ trợ. Ngoài ra, con đường dẫn tới chỗ trung thành với nhau này cần đến cánh cửa lòng mở ra trước đức ái của Chúa Kitô nữa, một đức ái “chấp nhận mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự” (1Cor 13:7). Mầu nhiệm cứu chuộc hiện thực nơi hết mọi cuộc sống hôn nhân, được thể hiện bằng việc thực sự tham phần vào Thánh Giá của Chúa Cứu Thế, bằng việc chấp nhận cái ngược đời của Kitô Giáo là cái liên kết hạnh phúc với việc chịu đựng khổ đau bằng tinh thần đức tin.
(còn tiếp)
“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai, cho dù không cùng một kiểu cách - Being the way by which Jesus came to us the first time, she will also be the way by which He will come the second time, though not in the same manner” (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)
"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria. Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài, nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể... the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary, He sees that his time is getting short, and he is making every effort to gain as many souls as possible..." (Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F, The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)
"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".
"Mary must become as terrible as an army in (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)
"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"
"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’” March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you. (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)
"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý. Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)
"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha... Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..." (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)
“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương - Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy. (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)
"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng (ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa; nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài, vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus', vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis', là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử', qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô, một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương) để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)
“Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
|
||||
Thời Điểm Maria ra mắt ngày
8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được
30.224 lần viếng thăm.
Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006.
Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006. |