Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Kn 2, 12. 17-20
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục
nhã".
Trích sách Khôn Ngoan
(Những kẻ gian ác nói rằng:) "Chúng ta hãy vây
bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối
việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ
luật. Vậy chúng ta hãy xem điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi
những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì
nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi
tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó
có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục
nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 53, 3-4. 5. 6 và 8
Ðáp: Chúa
đang nâng đỡ tâm hồn con (c. 6b).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin cứu sống con nhân
danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết cho con! Ôi Thiên Chúa, xin
nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng con xin. - Ðáp.
2) Vì những kẻ kiêu căng nổi lên chống đối, và
bọn người hung hãn tìm sát hại con, bọn chúng không nhớ Thiên Chúa ở trước
mặt mình. - Ðáp.
3) Kìa, Thiên Chúa phù trợ con, Chúa đang nâng
đỡ tâm hồn con. Con sẽ tự nguyện hiến dâng lễ vật lên Chúa. Lạy Chúa, con sẽ
ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Gc 3, 16 - 4, 3
"Hoa quả của công chính được gieo vãi trong
bình an cho những người xây đắp an bình".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở
đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Nhưng sự khôn ngoan từ trời xuống, thì
trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy
lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối.
Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp
an bình.
Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào
không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể
anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau.
Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ.
Anh em không có là tại anh em không xin. Anh em xin mà không nhận được, là
vì anh em xin không đúng, cứ mơ tưởng thoả mãn các đam mê của anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng
thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 9, 29-36
"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất,
thì hãy tự làm người rốt hết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi
xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người
dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ
giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông
không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người
hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc
đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống,
gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự
làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Rồi Người đem một em bé lại đặt
giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những
trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón
tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai
Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời
Chúa
Bài Phúc Âm theo Thánh ký Marco được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXV Năm
B tuần này không tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm cũng của cùng vị thánh ký
này của Chúa Nhật tuần trước. Giáo Hội đã bỏ 29 câu đầu của đoạn 9, bao gồm
3 sự kiện: 1- biến hình liên quan đến việc xuất hiện của Elia (9:1-13) và 2-
trừ quỉ cho một bé trai (9:14-29), mà chỉ lấy có 6 câu sau đó liên quan đến
lời tiên báo của Chúa Giêsu lần 2 về cuộc vượt qua của Người, một mô phạm
bất khả thiếu cho thành phần các môn đệ của Người.
Về nội dung thì bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này hơi giống với bài Phúc Âm
Chúa Nhật tuần trước (xem Marco 8:27-35). Ở chỗ, nếu bài Phúc Âm Chúa
Nhật tuần trước ghi lại lời Chúa Giêsu báo trước cuộc vượt qua của Người lần
thứ nhất, liên quan đến điều kiện quan thiết bất khả thiếu để có thể theo
Người là Đấng Vượt Qua, thì bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cũng thuật lại
lời Chúa Giêsu báo trước cuộc vượt qua của Người lần thứ hai, liên quan đến
tinh thần cần phải có nơi thành phần môn đệ của Người để có thể chấp nhận
Người.
Chúa Giêsu báo trước về cuộc vượt qua của Người lần thứ hai: "'Con Người
sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba,
Người sẽ sống lại'. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi
Người."
Tinh thần cần phải có nơi thành phần môn đệ của Người để có thể chấp nhận
Người: "Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: 'Dọc
đàng các con tranh luận gì thế?' Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông
tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai
ông lại và bảo các ông rằng: 'Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt
hết và làm đầy tớ mọi người'. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông,
ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế
này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực
ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy'".
Mục đích của Giáo Hội chọn đọc 2 bài Phúc Âm cho Chúa Nhật tuần trước và
tuần này tương tự như nhau, trong đó, bao gồm cả định mệnh cần phải vượt
qua của Chúa Kitô lẫn số phận của thành phần môn đệ theo Người, như để nói
lên rằng môn đệ không hơn Thày, tôi tớ không hơn chủ, Thày thế nào trò cũng
vậy, không thể nào khác hơn, không còn lựa chọn nào khác.
Đó là lý do, nếu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, Tông Đồ Phêrô đã bị
Chúa Giêsu thậm tệ khiển trách vì có tâm tưởng ngay lành nhưng lệch lạc
không đúng ý Thiên Chúa thế nào, thì trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này
Chúa Giêsu cũng đã, cho dù nhẹ nhàng và dịu dàng hơn, dạy cho các tông đồ
biết các ngài không thể nào sống theo khuynh hướng ham danh tham quyền tự
nhiên, trái lại, cần phải có tinh thần nhỏ bé và phục vụ theo gương của
Người, bằng không, các vị không thể nào theo Người cho tới cùng, không thể
nào sống đúng với vai trò chứng nhân của các vị.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này hơi
lạ, nhưng chắc chắn chúng phải bao hàm một ý nghĩa gì đó rất sâu xa. Lạ là ở
chỗ để giải quyết vấn đề tranh chấp giữa các môn đệ về quyền bính xem ai hơn
ai kém, sau câu trả lời "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt
hết và làm đầy tớ mọi người", Chúa Giêsu còn "đem một em bé lại đặt
giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những
trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón
tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai
Thầy'".
Phải chăng hành động Chúa Giêsu "đem một em bé lại đặt giữa các ông" ám
chỉ tinh thần đơn sơ bé nhỏ phải là mẫu sống cho chung các vị và cho từng
vị? Có thể các vị đã biết được tinh thần hy sinh phục vụ bất vụ lợi của Thày
các vị, qua lời nói và việc làm của Người như các vị đã nghe và đã thấy, nên
khi các vị được Người hỏi "'Dọc đàng các con tranh luận gì thế?'", thì "Các
vị nín thinh, vì dọc đàng các vị tranh luận xem ai là người lớn nhất"?
Và phải chăng cử chỉ của Người sau đó đã "ôm em bé mà nói với các ông
rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là
đón tiếp chính mình Thầy'", là cử chỉ Ngưới muốn ám
chỉ các vị cần phải trân quí và gắn bó sống tinh thần bé nhỏ thì các vị mới
có thể chấp nhận Người, mới có thể "đón tiếp chính mình Thầy", bằng
không, như ở đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "các vị không hiểu
lời đó và sợ không dám hỏi Người"? Nguyên
việc các vị "không dám hỏi Người" đã đủ cho thấy các vị không hồn nhiên ngây
thơ như trẻ nhỏ, trái lại, các vị tác hành như một người lớn, sợ bị quê hay
bị quở trách xấu hổ, một thái độ khôn ngoan của những con người lớn trần
tục.
Không biết có phải tự bản thân đã có kinh nghiệm tranh cãi về vai trò cao
thấp của mình là tông đồ và trong các tông đồ khi còn ở với Chúa Kitô hay
chăng, mà vị tông đồ Giacobê, trong Bài Đọc II hôm nay đã cho thấy những gì
ngài nhận định về tình trạng "ganh tị và cãi vã", liên quan đến hậu
quả và nguyên nhân của nó. Hậu quả: "ở
đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan"; Nguyên
nhân: "Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều
này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em
ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không
được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ."
Đối với thành phần còn thuộc về thế gian, còn suy nghĩ theo tự nhiên loài
người hơn là theo Thiên Chúa (xem Mathêu 16:23) thì họ cho rằng đường lối
cạnh tranh hơn thua là chính đáng, và bản thân họ phải chiếm được tất cả
những gì là hay nhất, tốt nhất và lợi nhất, hơn tất cả những người khác,
trái lại, họ không bao giờ chấp nhận thấy ai hơn họ hay đụng chạm đến họ, dù
đối tượng ấy không có ý gì, hoàn toàn do chủ quan và thành kiến sẵn có của
họ mà thôi, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay về thành phần những kẻ gian ác:
"Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó
không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển
trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Vậy chúng ta hãy xem
điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho
nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên
Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó.
Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại
không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói,
thì người ta sẽ cứu nó!"
Thế mà, thành phần gian ác đầy ý đồ xấu xa và tác hại đối phương của mình
như thế chẳng những không làm hại được đến những tâm hồn ngay lành chân
chính là đối thủ không đội trời chung của họ, trái lại, càng làm cho đối
phương của họ có dịp chứng tỏ đức công minh chính trực đích thật và trọn hảo
của mình, ở chỗ tin tưởng vào Chúa hơn lúc nào hết và hơn ai hết:
1) Ôi Thiên
Chúa, xin cứu sống con nhân danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết
cho con! Ôi Thiên Chúa, xin nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng
con xin.
2) Vì những kẻ kiêu căng
nổi lên chống đối, và bọn người hung hãn tìm sát hại con, bọn chúng không
nhớ Thiên Chúa ở trước mặt mình.
3) Kìa, Thiên
Chúa phù trợ con, Chúa đang nâng đỡ tâm hồn con. Con sẽ tự nguyện hiến dâng
lễ vật lên Chúa. Lạy Chúa, con sẽ ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.
Thứ
Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài
Ðọc I: (Năm
II) Cn
3, 27-34 {hoặc 27-35}
"Chúa ghê tởm những kẻ lừa
dối".
Trích sách Châm Ngôn.
Hỡi con, con chớ ngăn cấm người có
thể làm việc lành; nếu con làm được việc lành, thì chính con hãy làm.
Con chớ nói với người bạn của con rằng: "Hãy đi rồi trở lại, mai ta sẽ
cho ngươi", khi con có thể cho ngay.
Con chớ mưu toan gây ác cho bạn
hữu của con, khi nó tin tưởng vào con. Con chớ cạnh tranh với người ta
cách vô cớ, khi chính người đó không làm điều gì ác cho con. Con chớ
ganh tị với người bất chính, và chớ noi theo đường lối của nó. Vì Chúa
ghê tởm những kẻ lừa dối, và Chúa ở thân mật với những kẻ đơn sơ. Chúa
gửi đến nhà kẻ gian ác sự khó nghèo, còn nhà người công chính sẽ được
chúc phúc. Chính Chúa nhạo báng những kẻ gian dối, và ban ơn cho những
kẻ hiền lành. [Người khôn ngoan sẽ thừa hưởng vinh quang, nhưng phường
ngu xuẩn sẽ chuốc lấy ô nhục.]
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14,
2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Lạy Chúa,
người công chính sẽ cư ngụ trên núi thánh Chúa (c. 1b).
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và
thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa
lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại đồng
liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân,
nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ
thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những
điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm
nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh
em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8,
16-18
"Ðặt đèn trên giá đèn, để những ai
đi vào đều thấy sự sáng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng
rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng
đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì
kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho
người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có,
sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Đã có càng thêm - không có càng mất
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ
Hai Tuần XXV Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm Thứ
Bảy Tuần trước, Tuần XXIV Thường Niên.
Thật vậy, ngay sau khi
nói với đám đông dân chúng
tuốn đến nghe Người và Người đã giảng dạy họ bằng
dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa
Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, liền
giảng tiếp vỏn vẻn trong 3 câu Phúc Âm như
là những gì liên hệ với nhau bất khả phân ly trong cùng một bài giảng
của Người, đó là:
"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng
đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì
bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta
lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy để ý tới cách thức
anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay
cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."
Đúng thế, dụ ngôn người gieo
giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước liên quan đến 4 loại thính
giả, và 3 câu Phúc Âm hôm nay có liên hệ hết sức mật thiết với nhau ở
chỗ: "Vậy
hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Thế nhưng tại
sao Chúa Giêsu lại ghép cách thức nghe lời Chúa với việc thắp đèn lên
cho sáng tỏ chứ?
Phải chăng ở đây Chúa Giêsu có ý nói
rằng Chúa là người gieo giống, là Đấng rao giảng hạt giống lời
Chúa, chẳng
còn muốn gì hơn là làm sao cho lời của Người sinh hoa kết trái nơi con
người, nơi những người nghe lời của Người, mà "lời Chúa là đèn soi
chân con bước,
là ánh sáng dẫn lối con đi"
(Thánh Vịnh 119:105), thì
cũng có
nghĩa là Người
muốn thắp lên trong mỗi một con người ngọn đèn lời của Người, nếu họ
biết lắng nghe và đáp ứng lời
của Người, nhờ đó,
lời của Người cho dù đầy
sâu nhiệm "bí ẩn" cũng sẽ
"trở nên hiển hiện", dù
lời của Người như
có vẻ "che giấu" trong tâm
hồn của mỗi một người nghe lời của Người, cũng
sẽ trở
nên cụ
thể trước mặt mọi người qua đời
sống chứng nhân của họ, như
"được đưa ra ánh sáng" vậy.
"Chẳng
có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà
người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng"
ở đây còn có nghĩa là con người ta không thể che giấu được những gì ở
trong lòng mình là nguồn mạch tất cả những gì là xấu xa tội lỗi mà họ
muốn giấu nhưng lại cứ lộ ra bởi lòng đầy nên mới trào ra ngoài miệng
(xem Luca 6:45).
Người ta có thể căn cứ vào lời nói và việc làm hay phản ứng của chúng ta
để biết chúng ta thuộc hạng người nào, trình độ tu đức đức tin tới đâu,
có thực sự sống lời Chúa hay chăng, thuộc thành phần theo đạo hay đạo
theo v.v.
Đó là lý do cũng trong cùng Bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau đó, Chúa Giêsu
đã vừa nhắc nhở vừa cảnh giác thành phần Kitô hữu môn đệ của Người rằng
"hãy
để ý tới cách thức anh em nghe". Nếu chúng ta coi trọng lời
Chúa, đặt lời của Người trên hết mọi sự ở thế gian này, không có gì quan
trọng như Lời Người, giành thời giờ hằng ngày để nghiền gẫm, thưởng thức
Lời của Người, nhờ đó Lời Người sẽ biến đổi con người chúng ta nơi những
gì chúng ta phán đoán, chọn lựa, phát biểu, tác hành và phản ứng, và như
thế, chúng ta trở nên thành phần "đã có lại được cho thêm", càng trở nên
dồi dào với các hoa trái thiêng liêng bất diệt vô cùng phong phú xuất
phát từ Lời Chúa.
Trái lại, nếu chúng ta để cho các công việc hằng ngày của chúng ta úp
lên trên Lời Chúa là ánh sáng cần soi tỏ trong cuộc đời của chúng ta, để
cho các lo toan bận bịu phụ thuộc (cho dù cần đến đâu chăng nữa) của
chúng ta (so với Lời Chúa) lấn át Lời Chúa, ưu tiên hơn Lời Chúa, thì
chúng ta sẽ chẳng biết đâu mà phán đoán cho đúng, chọn lựa cho khôn, tác
hành cho khéo và phản ứng cho đẹp, để rồi tất cả những gì chúng ta làm
cho dù được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không phải chúng ta thực sự
là thành phần mà "ngay
cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất"
đúng như lời Chúa Giêsu cảnh báo trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm
nay hay sao?
Nếu biết lắng nghe, chấp nhận
và đáp ứng lời của Chúa, như một mảnh đất tốt, thì mảnh đất nhân tính
tốt của con người lắng nghe ấy sẽ trổ sinh hoa trái, như thể "ai
đã có (lời
Chúa),
thì được cho thêm (hoa trái)", trái
lại, thành phần nghe lời Chúa như một vệ đường hay như sỏi đá hoặc như
bụi gai, thì lời Chúa Giêsu kết luận ở cuối bài Phúc Âm hôm nay đã
khẳng định: "còn
ai không có (ám
chỉ lời
Chúa chẳng công hiệu gì nơi họ như thể họ chẳng có lời Chúa, chẳng hề
nghe lời Chúa),
thì ngay cái họ tưởng là có (như đức
tin họ lãnh nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, như việc lành phúc đức họ làm
là những gì họ tưởng là có), cũng
sẽ bị lấy mất (như
người đầy tớ được
trao cho một nén chẳng sinh lợi nên bị tước luôn - xem Mathêu 25:28-29)".
Nếu hiểu câu Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm
hôm nay:
"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng
đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng",
và nếu thành phần "đốt đèn"
được Chúa Giêsu ám
chỉ trong Bài Phúc Âm là những ai, trong đám "dân chúng" là đối
tượng nghe Người bấy giờ, làm lành, hay nói đúng hơn, là làm gương sáng
qua các việc lành họ làm, thì Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay rất
chí lý khi có lời huấn dụ rằng:
"Hỡi con, con chớ ngăn cấm người có thể làm việc lành; nếu con làm
được việc lành, thì chính con hãy làm. Con chớ nói với người bạn của con
rằng: 'Hãy đi rồi trở lại, mai ta sẽ cho ngươi', khi con có thể cho
ngay". Trái lại, họ còn tránh gây ra gương mù bằng các hành động
tiêu cực của họ nữa, như cùng Bài Đọc 1 hôm nay cảnh giác:
"Con chớ mưu toan gây ác cho bạn hữu của con, khi nó tin tưởng vào
con. Con chớ cạnh tranh với người ta cách vô cớ, khi chính người đó
không làm điều gì ác cho con. Con chớ ganh tị với người bất chính, và
chớ noi theo đường lối của nó".
Thành phần "đốt
đèn" bằng các việc lành trong đời sống
gương sáng của mình, và tránh đi tất cả những gì là gương mù gương xấu
của mình như thế, phải được gọi là "người công chính", những con người,
như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay cho biết "cư
ngụ trên núi thánh Chúa". Thật vậy, Thánh Vịnh 14 ở Bài Đáp Ca hôm
nay đã diễn tả về những con người công chính, cả về mặt tích cực lẫn
tiêu cực, trong đời sống của họ như sau:
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong
lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân
cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại
người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có
lung lay.
Ngày 23 tháng 9
Thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm
1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau
khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu
viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh
thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc
linh hướng, bí tích Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm
đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô
chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc cuộc hành
trình ở thế gian này.
Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ đã tìm cách chuẩn bị những viên đá để xây
nên ngôi đền vĩnh cửu, bằng những nhát đục đẽo miệt mài và gọt giũa
chuyên cần, tài khéo. Đó là điều mẹ rất dịu hiền của chúng ta là Hội
Thánh Công Giáo ca ngợi trong bài thánh thi lễ cung hiến thánh
đường. Và thật như vậy.
Bất cứ linh hồn nào được dành cho vinh quang vĩnh cửu có thể được
coi cách rất đúng như viên đá, để xây nên ngôi đền vĩnh cửu. Kiến
trúc sư xây nhà trước hết phải gọt đẽo những viên đá xây ngôi nhà
đó. Ông phải dùng búa dùng đục mà làm. Cha trên trời cũng làm như
thế đối với các linh hồn được tuyển chọn. Những linh hồn này, do sự
khôn ngoan và quan phòng tuyệt vời của Người, đã được dành riêng từ
thuở đời đời để xây dựng ngôi đền vĩnh cửu.
Vậy linh hồn được dành cho hưởng vinh quang vĩnh cửu để trị vì cùng
Đức Ki-tô, cũng phải được gọt giũa bằng những nhát búa nhát đục.
Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ dùng những thứ đó để chuẩn bị đá là những
tâm hồn được tuyển chọn. Những nhát búa, những nhát đục đẽo đó là gì
? Chị ơi, đó là các bóng tối, những sự sợ hãi, những cám dỗ, những
sự buồn phiền trong tâm trí, những nỗi sợ hãi về đường thiêng liêng,
với chút sầu não, và cả những đau đớn trong thân xác.
Vậy, chị em hãy tạ ơn lòng lành vô cùng của Cha muôn đời, vì Người
đối xử như vậy đối với linh hồn chị em, linh hồn đã được dành sẵn
cho ơn cứu độ. Tại sao không hãnh diện vì cách cư xử đầy tình nghĩa
của người cha tốt nhất trong các người cha ? Chị em hãy mở tâm hồn
ra cho Thiên Chúa là vị lương y của các linh hồn và phó thác mình
vào cánh tay chí thánh của Người, với đầy lòng tin cậy. Người xử với
chị em như những người được tuyển chọn để theo sát Đức Giê-su trên
con đường dốc lên đồi Can-va-ri-ô. Tôi vui mừng và vô cùng cảm động,
khi nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi chị em thế nào.
Chị em đừng hoài nghi rằng mọi sự xảy đến cho linh hồn chị em là do
Chúa xếp đặt. Vì thế đừng sợ rằng mình sa vào sự dữ hoặc xúc phạm
đến Thiên Chúa. Chị em chỉ cần biết rằng : trong toàn bộ cách sống,
chị em đã không bao giờ xúc phạm đến Chúa, trái lại Người đã được
tôn vinh mỗi ngày một hơn.
Nếu Đấng Phu Quân vô cùng nhân hậu của linh hồn chị em ẩn mình, thì,
không phải như chị em nghĩ, là vì Người muốn trả thù sự bất trung
của chị em, mà chỉ là vì Người thử thách sự trung thành và kiên trì
của chị em và chữa trị chị em cho khỏi một số bệnh tật, mà con mắt
xác thịt không nhìn thấy, là những bệnh tật và sai lỗi ngay cả người
công chính cũng không thoát khỏi. Thật vậy, Sách Thánh nói : Người
công chính ngã bảy lần.
Chị em hãy tin tôi : giả như tôi không biết là chị em buồn sầu như
vậy, thì tôi sẽ kém vui, vì tôi sẽ hiểu là Chúa ban cho chị em ít
viên ngọc hơn. Hãy xua đuổi như những cám dỗ các hoài nghi ngược
lại... Cũng hãy xua đuổi những hoài nghi về cách sống của chị em,
nghĩ rằng chị em không nghe tiếng Chúa kêu gọi và bỏ ngoài tai những
lời mời ngọt ngào của Đấng Phu Quân. Tất cả những điều đó không phát
xuất từ thần khí tốt mà là từ thần khí xấu. Đó là những mưu ma chước
quỷ nhằm làm cho chị em rời xa sự hoàn thiện, hay ít là chậm bước
trên con đường tiến về đó. Chị em đừng nản lòng !
Khi Đức Giê-su tỏ mình ra, chị em hãy tạ ơn Người ; nếu Người ẩn
mình, cũng cứ tạ ơn Người : đó là những trò vui của tình yêu. Tôi
muốn chị em cùng Đức Giê-su trao phó mạng sống trên thập giá và cùng
Đức Giê-su kêu lên : Đã
hoàn tất.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Pi-ô, linh
mục, ơn đặc biệt là được chung phần thập giá với Con Chúa, và nhờ
thừa tác vụ của thánh nhân, Chúa đã tái thực hiện những kỳ công của
lòng Chúa thương xót. Nhờ lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng
con luôn được kết hợp với cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô để mai sau
đạt tới vinh quang phục sinh. Chúng con cầu xin
(xin xem tiếp một số phụ bản về vị thánh này ở phần cuối tuần 25
Thường Niên này, sau PVLC Thứ Bảy và Tiểu Sử
2 Thánh Venceslao
& Laurensô Ruiz)
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) Cn
21, 1-6. 10-13
"Những câu Cách Ngôn khác nhau".
Trích sách Châm Ngôn.
Lòng vua ở trong tay Chúa, như những
dòng nước chảy, Người muốn hướng nó về đâu tuỳ ý Người. Mọi đường lối của
người ta đối với họ là ngay thẳng, nhưng Chúa cân nhắc tâm can. Thực hành
công bình và bác ái, thì đẹp lòng Chúa hơn là hy lễ. Mắt tự cao là lòng kiêu
ngạo: đèn kẻ gian ác là tội lỗi. Toan tính người cần mẫn luôn dẫn tới sự dồi
dào, còn mọi kẻ biếng nhác luôn gặp nghèo khó. Ai dùng lưỡi gian dối thu
tích kho tàng, là người hư hốt vô tâm, nó sẽ rơi vào lưới sự chết.
Tâm hồn người tội ác mơ ước sự dữ, nó
không thương xót người lân cận. Khi kẻ hung bạo bị sửa phạt thì người bé nhỏ
sẽ khôn ngoan hơn, và nếu nó theo người khôn ngoan, nó sẽ được thông minh.
Người công chính nhìn xem lòng kẻ tội ác, để cứu nó thoát khỏi tai hoạ. Ai
bịt tai không nghe tiếng người nghèo khó, thì lúc chính nó kêu cầu, cũng
chẳng ai nghe.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 1.
27. 30. 34. 35. 44
Ðáp: Lạy Chúa, xin
hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài (c. 35a).
Xướng: 1) Phúc đức những ai theo đường
lối tinh tuyền, họ tiến thân trong luật pháp của Chúa. - Ðáp.
2) Xin cho con am hiểu đường lối huấn
lệnh của Chúa, để con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.
3) Con đã chọn con đường chân lý, con
quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
4) Xin dạy con, để con vâng theo luật
pháp Ngài, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Ðáp.
5) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ
thị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.
6) Con sẽ tuân giữ luật Pháp Chúa luôn
luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
18
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng
theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8,
19-21
"Mẹ và anh em Ta là những người
nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến
tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo
tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người
trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Tình Nghĩa Thần Linh
Hôm
nay, Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cũng rất ngắn ngủi, chỉ có 3 câu, tiếp ngay
sau Bài Phúc Âm hôm qua về chiều hướng lời Chúa nơi con người thắp sáng trần
gian, và có liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua về ý nghĩa của nó, về mối liên
hệ đích thực giữa Người với những ai giữ lời Chúa, đó
là bài Phúc Âm trong đó
Chúa Kitô khẳng định về mối liên hệ thiêng liêng với Người:
"Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không
thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: 'Có mẹ và anh em
Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy'. Người trả lời với họ rằng: 'Mẹ và anh em
Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành'".
Đúng thế, qua câu khẳng định về
tình nghĩa thiêng liêng với Người này, Chúa
Giêsu chẳng những không
phủ nhận mối liên hệ tự
nhiên về huyết nhục, nhất là đối với Người Mẹ của Người, mà còn đề cao Mẹ
của Người hơn nữa, như muốn nhấn mạnh rằng Mẹ Maria của Người chẳng những có
phúc hơn tất cả mọi người phụ nữ trên trần gian này, vì đã được thụ thai và cưu mang Người (xem Luca 11:27) là "Lời đã hóa thành
nhục thể" (Gioan 1:14), là "Con Thiên Chúa", là "Con Đấng
Tối Cao" (Luca 1:32,35), mà
còn "có phúc" hơn tất cả mọi con người trên trần gian này chỉ "vì đã tin" (Luca 1:45), tin phục những gì đã truyền đạt
cho Mẹ.
Chính "đức tin tuân phục"
(Roma 1:5) của Mẹ mới làm và đã làm cho Mẹ nên một với Con của Mẹ, mới làm
cho Mẹ xứng đáng đồng công cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con Mẹ và
với Con Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng kề bên Thánh Giá của Người (xem Gioan
19:25). Mẹ là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, là môn đệ tuyệt hảo nhất của Con
Mẹ, đúng như Con Mẹ mong muốn, ở chỗ Mẹ là "người
nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Mẹ
không thể nào có thể "đem ra thực hành" lời Chúa nếu không "nghe
lời Thiên Chúa",
như khi Mẹ nghe thấy câu
trả lời của Thiếu nhi Giêsu Con Mẹ 12 tuổi trong đền
thờ sau 3 ngày lạc mất,
một lời mà Mẹ không nắm bắt được ý
nghĩa của nó (xem
Luca 2:50), nhưng Mẹ vẫn
lấy "đức tin tuân phục" để "xin
vâng" như trong Biến Cố Truyền Tin (xem Luca 1:38), hay như khi Mẹ chứng
kiến thấy những dấu lạ
Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn lưu giữ tất cả
những sự ấy mà suy niệm trong lòng, chẳng
hạn như sự
kiện ba chiêm tinh vương gia đông phương đến bái thờ Hài nhi Giêsu Con Mẹ
(xem Luca 1:19).
Bởi thế, Mẹ thật sự là Mẹ của
Chúa Kitô, Lời Nhập Thể cả về phương diện thể
lý lẫn phương diện thiêng
liêng. Nếu về phương diện
tự nhiên, Mẹ đã hạ sinh nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thuộc giòng
dõi Đavít, thì về phương diện siêu nhiên, nhờ đức tin tuân phục của Mẹ,
Mẹ đã thụ thai Lời Nhập Thể và Lời Nhập Thể đã chiếm đoạt Mẹ, biến Mẹ thành
phương tiện thông ban ơn cứu độ,
một ơn cứu độ trước
tiên được thông ban cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua lời chào đầy
Thánh Linh của Mẹ (xem Luca 1:41-44), và sau đó, cũng nhờ lời chuyển cầu
thần thế của Mẹ, bằng vai trò trung gian môi
giới giữa Con Mẹ và loài người, Chúa Giêsu lần đầu
tiên đã tỏ vinh quang của Người ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cưới Cana, làm cho các vị
tin vào Người (xem
Gioan 2:1-11).
Chính
nhờ tâm hồn đầy "đức tin tuân phục" của Mẹ
mà chẳng những tâm
hồn đầy ân phúc của Mẹ thực sự là Đền Thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị, mà
nhờ đó cả thân xác trọn đời trinh nguyên của Mẹ nữa cũng đã hoàn toàn trở
thành Đền Thờ vô cùng xứng đáng cho
Lời Nhập Thể ẩn ngự
trong suốt
9 tháng mở đầu
cho cuộc sống trần gian của Người.
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã ngấm ngầm và gián tiếp lợi dụng
chính gương
"nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" của Mẹ Người,
như mô phạm lý tưởng nhất cho những gì Người muốn huấn dụ thành phần "đám
đông" dân chúng đang nghe Người bấy giờ, để khuyên dạy họ hãy đặt trọng
tâm vào Thiên Chúa hơn vào bản thân mình, tức là vào việc
"nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" như Mẹ, hơn là chỉ vênh vang
được liên hệ với Chúa, là mẹ và là anh em của Chúa, một tâm trạng và thái độ
không hề có nơi Mẹ của Người.
Mẹ đã
liên lỉ
"nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" đến độ chính Lời Chúa làm chủ
và điều khiển cõi lòng cùng cuộc đời của Mẹ, một tâm trạng và tình trạng
siêu nhiên, có thể nói, như được Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay bóng bẩy
diễn tả rằng:
"Lòng vua ở trong tay Chúa, như những dòng nước chảy, Người muốn
hướng nó về đâu tuỳ ý Người". Nhờ đó Mẹ không bao giờ làm theo ý riêng
của mình, bằng không, Mẹ đã đánh mất căn tính "đầy ơn phúc" của Mẹ và nơi
Mẹ, vì Mẹ quá biết rằng, đúng như Sách Châm Ngôn hôm nay nhận định:
"Mọi đường lối của người ta đối với họ là ngay thẳng, nhưng Chúa cân
nhắc tâm can. Thực hành công bình và bác ái, thì đẹp lòng Chúa hơn là hy
lễ".
Mẹ đã sống đúng với tất cả những gì được Thánh Vịnh 118 ở Bài
Đáp Ca hôm nay diễn tả, hay nói đúng hơn, Mẹ là hiện thân và mô phạm của tất
cả những ai sống trọn Thánh Vịnh 118 này, những ai như Mẹ, "lưu giữ và
suy niệm trong lòng" (Luca 2:19,51), nghĩa là luôn biết chuyên chú đến
Thiên Chúa hơn là bản thân, đến Lời Chúa hơn là ý mình, đến mạc khải thần
linh của Chúa hơn là ngẫu tượng nhân tạo của loài người, ở chỗ:
"Lạy Chúa, xin hướng dẫn con vào đường
lối chỉ thị Ngài" (câu 35a):
1) Phúc đức những ai theo đường lối tinh tuyền, họ tiến thân
trong luật pháp của Chúa.
2) Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm
các điều kỳ diệu của Ngài.
3) Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ
của Ngài.
4) Xin dạy con, để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng
vâng theo luật đó.
5) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài, vì chính trong
đường lối này con sung sướng.
6) Con sẽ tuân giữ luật Pháp Chúa luôn
luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) Cn
30, 5-9
"Xin chớ để con ăn mày và cũng đừng
để con giàu có: xin chỉ ban cho con ăn dùng vừa đủ".
Trích sách Châm Ngôn.
Mọi lời Thiên Chúa như luyện trong
lửa, là thuẫn che chở kẻ nương tựa vào Người. Ngươi chớ thêm điều gì vào lời
Chúa, kẻo ngươi bị trách cứ và bị coi là kẻ gian dối. Con xin Chúa hai điều
này và xin đừng từ chối trước khi con chết: Xin hãy loại xa con sự giả trá
và lời gian dối. Xin chớ để con ăn mày và cũng đừng để con giàu có: xin chỉ
ban cho con ăn dùng vừa đủ: kẻo khi no đầy, con bị mê hoặc mà chối Chúa
rằng: Chúa là ai? Hoặc vì túng thiếu con đi ăn trộm và làm ố danh Thiên Chúa
của con.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 29.
72. 89. 101. 104. 163
Ðáp: Lời Chúa là
đèn soi tỏ dưới bước chân con (c. 105a).
Xướng: 1) Xin đưa con xa cách con
đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con. - Ðáp.
2) Ðối với con, luật pháp do miệng
Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
3) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp
kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao. - Ðáp.
4) Con kiềm hãm con xa mọi điều gian
ác, để giữ trọn những lời răn dạy của Ngài. - Ðáp.
5) Nhờ huấn lệnh Ngài con trở nên minh
mẫn, bởi thế con ghét mọi đường lối gian tà. - Ðáp.
6) Con ghét và ghê tởm điều gian dối,
con yêu chuộng luật pháp của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa
Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 1-6
"Người sai các ông đi rao giảng
nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông
đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa
lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và
chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang
gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào
nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón
các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm
chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng,
và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Thiên Chúa muốn tỏ mình ra qua con
người, dù họ là ...
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, không
tiếp nối bài Phúc Âm hôm qua, mà bỏ qua hết 34 câu còn lại của đoạn 8
Phúc Âm Thánh ký Luca, một khúc phúc âm bao gồm 3 sự kiện chính yếu
sau đây:
1- Chúa Giêsu dẹp yên bão tố khi được các môn đệ đánh
thức lúc Người ngủ trên thuyền (câu 22-25),
một sự kiện đã được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Ba Tuần
XIII Thường Niên;
2- Người ra tay trừ quỉ cho một
người trần truồng ở Gerasene (câu 26-39), một
sự kiện cũng đã được
Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Tư Tuần
XIII Thường Niên; và
3- Người chữa
lành người đàn bà loạn huyết 12 năm và hồi sinh đứa con gái của vị
trưởng hội đường (40-56), một sự kiện cũng đã được
Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại cho ngày Thứ Hai Tuần XIV Thường Niên.
Bài Phúc Âm hôm
nay bao gồm 6 câu đầu của đoạn 9 Phúc Âm Thánh Luca, liên quan đến biến
cố Chúa Giêsu sai 12 tông đồ "đi
rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân", một
biến cố cũng đã được Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại cho Thứ
Năm Tuần XIV Thường Niên.
Tuy nhiên, nếu bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên liên
quan đến bài đọc 1 được trích từ Sách Khởi Nguyên
(44:18-21,23-29;45:1-5): Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XIV Thường Niên, thì bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay liên quan đến
Sách Esdra
/ Ezra.
Nguyên văn nội
dung của bài Phúc Âm hôm nay như thế này: "Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và
quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người
sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người
bảo các ông rằng: 'Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và
bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở
lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì
khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố
cáo họ'. Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và
chữa lành bệnh tật khắp nơi".
Chỉ có
trong Phúc Âm Thánh Luca mới có hai lần Chúa Kitô sai đi: lần đầu Người
sai 12 tông đồ như trong bài Phúc Âm hôm nay (9:1-6) và lần hai Người
sai 72 môn đệ (xem Luca 10:1-20). Nếu để ý chúng ta thấy hai thành phần
được Người sai đi rất khác nhau ít là ở mấy điểm chính yếu sau đây: 1-
trong khi 72 môn đệ được sai đi cứ từng cặp 2 người một, (phải chăng đó
là lý do chúng ta mới thấy 2 môn đề đi về làng Emmau với nhau được Thánh
ký Luca thuật lại - 24:13-35), còn 12 tông đồ thì không cần; 2- trong
khi các tông đồ được Chúa Giêsu ban cho quyền trừ quỉ và chữa lành thì
72 môn đệ lại không được Người chính thức ban cho quyền này khi các vị
được sai đi như các tông đồ.
Về quyền trừ quỉ (liên quan đến phần hồn) và chữa lành (liên quan đến
phần xác) là những gì xuất phát từ Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ
con người cả hồn lẫn xác, bằng cuộc Vượt Qua sự chết mà vào sự sống của
Người, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi (do ma quỉ) và sự chết (do tội lỗi
của loài người). Ơn Cứu Độ cả hồn lẫn xác của con người này được Chúa
Kitô thông ban cho Giáo Hội của Người để Giáo Hội thay Người ban phát
cho các linh hồn qua các Bí Tích Thánh, và quyền ban phát các Bí Tích
Thánh cũng là thông ban Ơn Cứu Độ này của Chúa Kitô chỉ ở nơi các tông
đồ cùng các vị thừa kế của các ngài là hàng giáo phẩm của Giáo Hội trên
khắp thế giới qua giòng thời gian.
Tuy có quyền trừ quỉ đấy nhưng nếu bản thân của chính các vị tông đồ
không thánh thiện thì các ngài cũng chẳng trừ được quỉ, như đã từng xẩy
ra (xem Marco 9:18-19,28-29). Đúng thế, nếu các tông đồ còn ham mê thế
gian trần tục vốn thuộc về vương quốc của ma quỉ, hay còn ham danh tranh
giành nhau theo tinh thần kiêu căng tự phụ của ma quỉ, thì các ngài
thuộc về ma quỉ và là tay sai của ma quỉ thì làm sao các ngài có thể trừ
được chính ma quỉ là chủ tể của các ngài chứ. Đó là lý do, trong Bài
Phúc Âm hôm nay, vì việc truyền giáo là việc của Thiên Chúa nên những ai
được sai đi truyền giáo phải hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, hơn là vào
những cái phụ thuộc vật chất và quá quan tâm đến những gì thứ yếu hơn
những cái chính yếu là Nước Chúa.
Đúng thế, những ai được sai đi truyền giáo phải hoàn toàn tin tưởng vào
Ngài, hơn là vào những cái phụ thuộc vật chất và quá quan tâm đến những
gì thứ yếu hơn những cái chính yếu là Nước Chúa, nghĩa là hãy để Chúa
làm chủ bản thân mình và hoạt động của mình, nhất là các hoạt động thuộc
sứ vụ truyền giáo do chính Người chỉ định họ và sai họ đi thực hiện, như
Sách Châm Ngôn trong Bài Đọc 1 hôm nay cảm nhận:
"Mọi lời Thiên Chúa như luyện trong lửa, là thuẫn che chở kẻ nương
tựa vào Người", Đấng quan phòng thần linh chắc chắn sẽ đích thân
chẳng những lo việc truyền giáo của Ngài, mà còn lo cho cả chính thành
phần thừa tác viên của Ngài nữa, chứ không để "con ăn mày và cũng
đừng để con giàu có".
Và một khi
"Lời Chúa là đèn soi tỏ dưới bước chân con"
nơi bản thân và hoạt động của thành phần thừa sai truyền giáo, như Câu
Họa của Bài Đáp Ca hôm nay chân nhận vừa rồi, thì tâm tình và nguyện ước
của họ không thể không phản ảnh nội dung của Thánh Vịnh 118, với những
câu được Giáo Hội sử dụng thích hợp cho Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban
luật pháp của Ngài cho con.
2) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc
châu báu muôn ngàn.
3) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như
cõi trời cao.
4) Con kiềm hãm con xa mọi điều gian ác, để giữ trọn những lời răn
dạy của Ngài.
5) Nhờ huấn lệnh Ngài con trở nên minh mẫn, bởi thế con ghét mọi
đường lối gian tà.
6) Con ghét và ghê tởm điều gian dối, con yêu chuộng luật pháp của
Ngài.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) Gv
1, 2-11
"Chẳng có chi mới lạ dưới mặt
trời".
Trích sách Giảng Viên.
Giảng viên đã nói: Phù vân trên mọi
phù vân: phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều là phù vân. Ích lợi gì cho
con người làm lụng vất vả dưới mặt trời? Một thế hệ qua đi, một thế hệ khác
lại đến: nhưng địa cầu vẫn đứng vững muôn đời. Mặt trời mọc lên rồi lại lặn
xuống, trở về chỗ cũ nơi nó lại mọc lên. Gió thổi về hướng nam, rồi quay về
hướng bắc; nó thổi xoay chiều khắp bốn phương, rồi quay về vòng cũ.
Mọi sông ngòi đều chảy ra biển mà biển
không đầy tràn: nước sông trở về chỗ cũ rồi lại chảy đi.
Muôn vật đều phải làm việc vất vả, và
không ai có thể cắt nghĩa tại sao. Mắt xem mãi cũng không chán, tai nghe
hoài cũng không thoả.
Sự đã qua là gì? Chính nó là sự sẽ có.
Sự đã xảy ra là gì? Chính nó là sự sẽ xảy ra. Chẳng có chi mới lạ dưới mặt
trời, cũng chẳng ai nói được rằng: "Ðây cái này mới". Vì nó đã có từ lâu đời
trước chúng ta. Người ta cũng chẳng còn nhớ đến tổ tiên và những con cháu
sau này; cũng chẳng nhớ đến những người sẽ đến sau.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4.
5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy
Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên
nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa
khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
- Ðáp.
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ
màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt,
buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày
giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ
còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ
ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin
cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay
chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con
làm ra. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c
và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 7-9
"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi,
ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết
tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông
Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra";
kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì
nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm
những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Con Cáo Hêrôđê
Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên Giáo Hội đã chọn đọc bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu có
nội dung về biến cố Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị chém đầu với
lời mở đầu của quận vương Hêrôđê liên quan đến danh tiếng của Chúa
Giêsu: Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XVII Thường Niên. Hôm
nay, Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh
ký Luca cũng lập lại lời của vị quận vương này về
danh tiếng của Chúa Giêsu liên quan đến cái chết của Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả.
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm Thánh Mathêu bao gồm cả tiến
trình xẩy ra việc lấy thủ cấp của vị thánh này và chỉ nói vỏn vẻn đến
cảm nhận của quận vương Hêrôđê,
thì Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay lại không
thuật lại tất cả diễn tiến xẩy ra biến cố ấy, nhưng bao gồm cả các cảm
nhận khác cùng với cảm nhận của
chính quận
vương Hêrôđê về Chúa Giêsu:
"Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã
làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống
lại'; còn kẻ khác lại nói: 'Ông Êlia đã hiện ra'; kẻ khác nữa nói rằng:
'Một tiên tri thời xưa đã sống lại'. Nhưng Hêrôđê thì nói: 'Ông Gioan
trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như
thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Trước hết, chúng ta
thấy rằng, nhờ
Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta có thể suy ra là cảm nhận của quận
vương Hêrôđe trong bài Phúc Âm của Thánh
ký Mathêu có
thể đã bị ảnh hưởng bởi cảm nhận của một
vị quần
thần nào đó của
vua: "vì
có kẻ nói rằng: 'Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại'",
và vua chỉ lập lại cảm nhận ấy như là cảm nhận của vua về Chúa Giêsu
thôi: "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ
hầu cận rằng: Đó
chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có
quyền năng làm phép lạ" (14:2)
Qua cảm nhận này của quận
vương Hêrôđê, người ta có cảm tưởng là vị quận vương này vừa đánh trống
vừa ăn cướp, đúng là một "con cáo" (Luca 13:32) muốn "tìm giết"
cả Người nữa, như Người đã được một số người biệt phái mật báo cho biết
sau này (xem Luca 13:31). Còn trong bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, ông ta lại có vẻ khách quan
hơn, thiện chí hơn và tỏ
ra thân
thiện hơn với Chúa Giêsu: "Khi
ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì
phân vân... 'Ông
Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những
điều như thế?' và vua tìm cách gặp Người".
Ở đây, trong bài Phúc Âm của
Thánh ký Luca, vị quận
vương Hêrôđê này chỉ tỏ
ra thắc mắc mà thôi,
chứ không suy diễn rồi đi đến quả quyết chủ quan một cách hống hách
ngang tàng như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, và
chính vì
thắc mắc nên ông mới
muốn "tìm
cách gặp Người".
Không ngờ, ước nguyện
muốn được gặp Người của ông cuối cùng cũng đã được đáp ứng, khi tổng
trấn Philatô, nghe biết Chúa Giêsu gốc gác thuộc về miền Galilêa là
vùng thuộc thẩm quyền của vị quận vương này, đã giải giao Người cho ông, và khi nghe
thấy thế ông đã tỏ ra "hết sức vui mừng để gặp Người", nhưng ông đã
hoàn toàn thất vọng
khi gặp Người, bởi ông chỉ muốn "xem Người làm một phép lạ nào đó",
mà không được toại nguyện nên ông cùng đám vệ binh của ông đã tỏ
ra khinh chê nhạo báng Người (xem Luca 23:6-12).
Phải chăng Kitô hữu
chúng ta đôi khi cũng chỉ muốn "tìm
cách gặp Người" như
quận vương Hêrôđê này để được "xem Người làm một phép lạ nào đó", ở
chỗ Người ban cho chúng ta những điều chúng ta xin Người, nhất là trong
cơn gian nan khốn khó hoạn nạn của chúng ta, cần được cứu vớt nhanh bao
nhiêu có thể, lạ bao nhiêu có thể theo lòng mong ước chủ quan thiển
cận của chúng ta, nhưng xin mãi mà Người vẫn im lìm chẳng nhúc nhích gì,
khiến chúng ta cảm thấy chán ngán Người, xa lánh Người và thậm chí chối bỏ
Người cùng nguyền rủa
Người?
Đối với những thứ ước nguyện như thế, như của quận vương Hêrôđê trong
Bài Phúc Âm hôm nay, hay các thứ mộng mơ tương tự của phàm nhân, chỉ
thuần tự nhiên và trần tục, thì theo Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm
nay, chỉ là
"phù vân trên mọi phù vân: phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều
là phù vân. Ích lợi gì cho con người ... Chẳng có chi mới lạ dưới mặt
trời".
Trái lại, đối với con người sống trên trần gian này, cái khôn ngoan
nhất họ cần phải tìm kiếm nhất, cần phải nhận thức và khát khao cùng ước
nguyện trên hết mọi sự và trước hết mọi sự, đó là những gì ở nơi Câu Họa
của Bài Đáp Ca hôm nay:
"Thân
lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia".
Tại sao vậy? Chính Thánh Vịnh 89, được Giáo
Hội trích dẫn một số câu cho Bài Đáp Ca hôm nay, đã trả lời cho họ như
sau:
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua
đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về
bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ
mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi
và nó héo khô.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng
trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ
lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con
mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng
ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra,
xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
Ngày 26-09
Thánh COSMA và Thánh ĐAMIANÔ
tử đạo
Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh
đôi. Sinh tại Ả rập. Các Ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các Ngài là một
góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri
thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Syria. Tại đây Cosma
và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng.
Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy
Lạp là “những người nghèo khó.” Với
cách thức đó, các ngài đã hoán cải được nhiều người
trở thành tín hữu Công giáo.
Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa
này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành
thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật
bệnh linh hồn. Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các
bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng
nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần
xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.
Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các
Ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn
phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc
chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này
lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài.
Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết
vì đạo của các Ngài.
Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo,
đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải
dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. Các lương
dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề
thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ
tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo
Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai
Ngài. Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không
được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma
và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa.
Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần
đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.
Chứng kiến phép lạ tỏ tường ấy, thêm nhiều người được ơn trở
lại. Sau khi Cosma và Đamianô qua đời, có nhiều chứng bệnh
được chữa lành qua lời chuyển cầu của các ngài. Đôi khi hai vị
còn hiện ra trong giấc mơ để mách bảo cho bệnh nhân
phương pháp chữa bệnh. Nghe tin này, quan tổng trấn truyền
lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân
vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm.
Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận
lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã
hành hạ mình. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác
và nhận phúc tử vì đạo. Hôm ấy là ngày 26-09-297.
Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội
vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện. Hoàng đế
Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện
đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài
chịu chết vì đạo. Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498 - 514)
đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix
IV (526 - 530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài. Tại
Brazil, Cosma và Đamianô được coi là người bảo vệ trẻ em, vào
ngày lễ kính, tín hữu Brazil tặng các trẻ em những túi kẹo có in
hình các ngài. Cùng
với thánh Luca, hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh
bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ websites của TGP Sài Gòn,
Dòng Tên và CGVDT
Dẫn Nhập
(Đaminh
Maria cao tấn tĩnh)
Đọc hay nghe truyện 2 Thánh Cosma và Đamianô hôm nay, chúng ta
thấy được rằng bất cứ dân nước nào trên thế giới trên thế giới
đều có thể nên thánh, đều có người tốt, dù chủng tộc của họ có
thế nào chăng nữa. Theo lịch sử của Giáo Hội, thì Phi Châu, một
châu lục vốn bị coi là chậm tiến nhất thế giới, thua cả Á Châu,
thế mà ngay từ đầu đã có những vị thánh đặc biệt và nổi tiếng,
như Thánh Giám Mục Cypriano thế kỷ thứ 3, hay Thánh Âu Quốc
Tinh, Thánh Monica thế kỷ thứ 5 v.v.
Kể từ sau khi Kitô giáo được chính Con Thiên Chúa xuống thế làm
người thành lập, tức là kể từ sau khi "Lời đã hóa thành nhục
thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, "ánh sáng chân thật
chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:12),
thì kể như không còn một đạo giáo nào khác trên thế giới có vẻ
mê tín dị đoan và đa thần xuất hiện nữa, như trước thời Kitô
giáo này. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 7, một tôn giáo hoàn toàn
mới mẻ đã xuất hiện, mang tính cách pha trộn giữa Do Thái giáo
và Kitô giáo, cũng tôn thờ một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
như Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên, lại qua một vị trung
gian khác, đó là vị đại tiên tri Mohammed của họ, hơn là Moisen
của Do Thái giáo, hay Đức Giêsu Kitô của Kitô giáo.
Thứ đạo mới này được gọi là Hồi giáo (Islam), và tín đồ của tôn
giáo này được gọi là Muslim, có nghĩa là thành phần thuận phục
Thiên Chúa. Vị giáo tổ Mohammed của họ được cho là đã đọc toàn
bộ Thánh Kinh Kitô giáo, (kỹ đến đâu thì không biết), nên đã
biết lịch sử dân Do Thái trong Cựu Ước, và cả Chúa Giêsu lẫn Đức
Maria cùng Tổng Thần Gabriel trong Tân Ước; nhưng ông chỉ công
nhận tổ phụ Abraham, vì có liên quan đến cả dân Do Thái (từ
Isaac là con thứ của vị tổ phụ) lẫn Ả Rập (liên quan đến người
con Ismael được sinh ra theo xác thịt từ nữ đầy tớ Ai Cập, tỳ nữ
của Sara, vợ của tổ phụ Abraham). Còn Chúa Giêsu cũng chỉ là vị
tiên tri ngang hàng với ông, thậm chí còn thua ông.
Ông đã viết Kinh Koran, được tín đồ coi như "thánh kinh" của họ,
vị vị đại tiên tri giáo tổ của họ được Thần Gabiên mạc khải cho,
trong đó, ông chủ trương tất cả những gì hợp với Cựu Ước hơn là
Tân Ước, chẳng hạn, 2 điều điển hình nhất là chủ trương đa thê
của Cựu Ước, hơn là đơn thê của Tân Ước, và chủ trương tính cách
có vẻ bạo lực của Cựu Ước, vì ông thấy Vị Thiên Chúa của Cựu Ước
rất công thẳng, động một tí là trừng phạt nghiêm minh, hơn là
lòng nhân từ của Cha Trên Trời là Đấng Xót Thương (xem Luca
6:36) nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước v.v. Từ
đầu thế kỷ 21, thế giới đã liên tục xẩy ra các cuộc khủng bố tự
sát gây ra bởi những con người hay những nhóm khủng bố quốc tế,
nổi tiếng nhất là Al-Queda, một tổ chức đã công khai tấn công
khủng bố Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001, và từ năm 2014, một nhóm
khủng bố khác xuất hiện ở Iraq, được gọi là ISIS, còn kinh khủng
dữ tợn hơn nữa, đã gây ra biết bao chết chóc và kinh hoàng trên
khắp thế giới, nhất là thế giới Tây Phương, với các cuộc khủng
bố đã xẩy ra ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha v.v., và ngay cả trong
vùng thế giới riêng của họ, bao gồm cả Iraq và Syria, đến độ họ
đã làm cho dân chúng phải thoát thân, tràn sang Âu Châu qua ngả
Thổ Nhĩ Kỳ, khiến Âu Châu vẫn còn chới với tới bây giờ....
Hôm nay, nhân lễ hai vị thánh người Ả Rập, chúng ta cũng nên đọc
thêm về một người Ả Rập khác, một người Ả Rập Hồi giáo nhưng rất
thành tâm và rất can đảm, dám lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở
chính đồng đạo Hồi giáo của mình, về chính đạo giáo của mình,
một thứ đạo, như chúng ta thấy, ngay từ ban đầu, ngay từ thời vị
giáo tổ của họ, đã chủ trương canh tân xã hội bằng vũ lực, bằng
các cuộc thánh chiến, thậm chí bằng cả các cuộc tấn công khủng
bố, bất chấp là ai, kể cả chính đồng đạo của họ, và tôn giáo hóa
chính trị, bắt mọi người không phải Hồi giáo, đều bị họ cho là
bọn bất trung infidels, nghĩa là không thuận phục Thiên Chúa như
họ, thành phần mang danh Muslim với ý nghĩa như thế, phải cải
đạo trở về thuận phục vị Thiên Chúa Allah Vĩ Đại chân thực duy
nhất của Hồi giáo, qua Mohammed là vị đại tiên tri trung gian
đích thực duy nhất của Ngài. Tạ ơn Chúa còn cho thế giới thấy có
những tia sáng phát ra từ một thứ thế giới đã từng liên tục ôm
mộng thống chiếm Âu Châu, và đã liên tục bách hại cùng sát hại
Kitô giáo chưa từng thấy như hiện nay.
"Từ đáy lòng của một người Hồi giáo chân thực"
Tác giả là bác sĩ Tawfik Hamid, một nhà thông thái Ai cập,
với bằng cấp Y sĩ nội khoa và bằng Cao học tâm lý nhận thức
và kỷ thuật giáo dục.
Tôi được sinh ra là người Hồi Giáo và đã sống suốt cuộc đời như một tín
đồ Hồi Giáo. Sau những cuộc tấn công khủng bố man rợ khắp nơi trên thế
giới của hành tinh này qua bàn tay của những anh em hồi giáo của tôi, và
sau quá nhiều hành vi bạo lực của những tín đồ hồi giáo ở nhiều nơi trên
thế giới, tôi - một người hồi giáo và là một con người, cảm thấy có
trách nhiệm nói lên và kể ra sự thật để bảo vệ cho thế giới, kể cả người
hồi giáo, tránh khỏi một tai họa có thể thấy trước và một trận chiến
giữa các nên văn minh.
Tôi phải thừa nhận rằng giáo huấn hiện hành của hồi giáo kích động bạo
lực và sự thù ghét đối với những người không phải là tín đồ hồi giáo.
Chúng ta, những người hồi giáo là những kẻ
cần phải thay đổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chấp nhận chế độ đa thê, sự bạo hành thể xác
của bọn đàn ông đánh đập người phụ nữ và sự tử hình đối với những người
bỏ đạo hồi để qua các tôn giáo khác.
Chúng ta chưa từng bao giờ có được một lập trường rõ ràng và vững chắc
chống lại quan niệm về nạn nô lệ hoặc chiến tranh, chống lại phương thức
truyền bá đạo chúng ta bằng cách chế ngự những kẻ khác vào đạo hồi và
buộc họ phải trả một loại thuế nhục nhã gọi là Jizia. Chúng ta đòi người
khác phải tôn trọng tôn giáo của chúng ta, trong khi chúng ta lúc nào
cũng chưởi lớn (bằng tiếng Ả Rập) những kẻ ngoại đạo trong những buổi
cầu nguyện vào ngày thứ sáu trong các thánh thất hồi giáo.
Chúng ta phát ra thông điệp nào cho con cháu của chúng ta khi chúng ta
gọi những người Do Thái là “đồ
hậu sinh của loài heo khỉ” ? (dù rằng người Ả Rập và người
Do Thái đều là hậu duệ của ông Abraham) ! Phải chăng đó là một thông
điệp của tình thương và hòa bình, hay là một thông điệp của sự thù hận ?
Tôi đã từng đi vào nhà thờ và các hội đường ở đó họ đang cầu nguyện cho
những người hồi giáo. Trong khi đó thì mọi lúc chúng ta đều nguyền rủa
họ, và dạy cho những thế hệ con cháu chúng ta phải gọi họ là “bọn
bất trung” và thù ghét họ.
Chúng ta lập tức nhảy cửng lên theo “phản xạ của đầu gối” một cách tự
động để bào chữa cho Tiên Tri Mohammed khi có ai đó tố giác ông ta là kẻ
thích ấu dâm trong khi chúng ta lại hãnh diện về câu chuyện trong sách
đạo hồi của chúng ta kể rằng ông ấy đã cưới một bé gái bảy tuổi (tên là
Aisha) làm vợ khi ông ta đã ngoài 50 tuổi.
Tôi cảm thấy buồn khi nói rằng nhiều người, nếu không phải là hầu hết
chúng ta, đều hân hoan trong vui sướng sau vụ 9/11 và sau nhiều vụ tấn
công khủng bố khác. Trước mặt truyền thông thì người Hồi giáo tố giác
những vụ tấn công đó, nhưng chúng ta lại khoan dung cho những kẻ khủng
bố hồi giáo đó và có thiện cảm với lý tưởng của họ. Đến nay thì những vị
đỉnh cao “lừng danh” trong giáo quyền đã không hề ban bố một Fatwa hay
là một thông báo tôn giáo nào để tuyên bố rằng Bin Laden là một tên lạc
đạo, trong khi đó thì nhà văn Rushdie lại bị tuyên bố là tên lạc đạo cần
phải giết chết chiếu theo luật Sharia của hồi giáo chỉ vì ông ta viết ra
một cuốn sách chỉ trích đạo hồi.
Những người hồi giáo đã biểu tình để đòi quyền được đạo đức hơn là những
gì họ đã có tại Pháp, biểu tình đó là để chống lại lịnh cấm choàng khăn
trùm đầu Hejab, nhưng chúng ta đã không biểu tình với một niềm đam mê
như thế đối với một số quá lớn những vụ ám sát khủng bố. Chính sự im
lặng tuyệt đối của chúng ta đối với những kẻ khủng bố đã khiến chúng có
thêm năng lực để tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa của chúng.
Chúng ta, những người hồi giáo phải chấm dứt mang cái nguyên nhân gây ra
các khó khăn của chúng ta gán lên đầu người khác hoặc lên sự xung đột
giữa Do Thái và Palestine. Đây là một vấn đề lương thiện khi xác nhận
rằng nước Do Thái là ánh sáng duy nhất của sự dân chủ, của văn minh, của
nhân quyền trong khối các quốc gia Trung Đông.
Chúng ta đã xua đuổi những người Do Thái ra khỏi hầu hết các xứ ả rập mà
không chút bồi thường hoặc thương xót để biến họ thành những “người Do
Thái vô quê hương” trong khi đó thì nước Do Thái đã chấp nhận cho hơn
một triệu người ả rập được sống trong lòng của họ, xem họ như những công
dân Do Thái để họ được hưởng đầy đủ quyền lợi của con người.
Ở nước Do Thái, những phụ nữ ả rập không thể bị đánh đập một cách hợp
pháp bởi bọn đàn ông, và mọi người đều có thể thay đổi niềm tin của họ
mà không sợ bị kết án tử hình bởi luật “lạc đạo” của hồi giáo, trong khi
đó trong thế giới của hồi giáo, không một ai được hưởng một cái gì trong
những quyền lợi đó.
Tôi đồng ý là những người dân Palestine đang đau khổ, nhưng họ đau khổ
là vì những kẽ lãnh đạo của họ hư hỏng chứ không phải vì Do Thái.
Thật hiếm thấy những người Ả Rập đang sống tại Do Thái bỏ ra đi để về
sống trong những nước ả rập. Ngược lại chúng tôi thấy hàng ngàn người
dân Palestine vui sướng đi lao động tại nước Do Thái là “kẻ thù của họ”.
Nếu nước Do Thái đối xử tàn tệ với người Ả Rập như có kẻ đã rêu rao, thì
hẳn chúng ta sẽ thấy được một hiện tượng trái ngược lại.
Chúng ta, những người Hồi Giáo, cần phải gánh vác những nan đề của chúng
ta và đối mặt với chúng. Chỉ có lúc đó chúng ta mới có thể giải quyết
được vấn nạn để bắt đầu một kỷ nguyên mới sống trong hòa hợp với tình
nhân loại của con người.
Những vị lãnh đạo tôn giáo phải chứng minh một lập trường rõ ràng và
vững chắc chống lại việc đa thê, ấu dâm, nô lệ, kết án tử hình đối với
những kẻ bỏ đạo Hồi qua các tôn giáo khác, họ phải kết án những sự bạo
hành thể xác của bọn đàn ông lên phụ nữ, và khuynh hướng tuyên chiến với
những kẻ ngoại đạo để bành trướng Hồi Giáo.
Khi đó, và chỉ có
khi đó thì chúng ta mới có quyền đòi hỏi những kẻ khác tôn trọng tôn
giáo của chúng ta. Thời điểm đã đến để chúng ta chấm dứt sự giả đạo đức
của chúng ta và công khai nói : “Chúng tôi, những người Hồi Giáo phải
thay đổi.”
Tawfik Hamid
Chúng ta hãy tiếp tục cầu cho họ, cũng như cho dân Chúa Do Thái, để cuối
cùng tất cả được ứng nghiệm những gì đã được chính Chúa Kitô đã tiên
báo: "Sẽ chỉ có một đàn chiên theo một chủ chiên" (Gioan
10:16).
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) Gv
3, 1-11
"Vạn vật dưới bầu trời đều trải qua
thời gian của chúng".
Trích sách Giảng Viên.
Mọi sự đều có thì giờ của chúng. Vạn
vật dưới bầu trời đều trải qua thời gian của chúng. Có thời gian sinh, thì
cũng có thời gian chết. Có thời gian trồng xuống, thì cũng có thời gian nhổ
lên cái đã trồng. Có thời gian giết chết, thì cũng có thời gian chữa lành.
Có thời gian phá huỷ, thì cũng có thời gian xây dựng. Có thời gian khóc lóc,
thì cũng có thời gian cười vui. Có thời gian than van, thì cũng có thời gian
nhảy múa. Có thời gian rải đá, thì có thời gian thu lượm lại. Có thời gian
gần gũi, thì cũng có thời gian xa cách. Có thời gian thâu hoạch, thì cũng có
thời gian tiêu tán đi. Có thời gian gìn giữ, thì cũng có thời gian loại bỏ.
Có thời gian xé rách, thì cũng có thời gian vá lại. Có thời gian thinh lặng,
thì cũng có thời gian nói năng. Có thời gian yêu thương, thì cũng có thời
gian giận ghét. Có thời gian chinh chiến, thì cũng có thời gian hoà bình.
Con người còn được gì do công lao vất
vả của mình? Tôi suy nghĩ về sự khổ cực mà Thiên Chúa đã để cho con cái loài
người phải chịu đựng.
Chúa tác tạo vạn vật trong thời gian
Chúa muốn, và trao phó thế gian cho loài người tranh giành, nhưng con người
không hiểu được việc Thiên Chúa đã làm từ đầu đến cuối.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 143, 1a
và 2abc. 3-4
Ðáp: Ôi Ðá Tảng
của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a)
Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc
tụng Chúa! Chúa là Tình Thương và là chiến lũy, là Ðấng phù trợ và giải
phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, nhân loại là chi mà Chúa
chăm nom, con người là chi mà Chúa thương nghĩ tới? Con người ta như hơi gió
thoảng, đời người ta như bóng thoáng qua. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94,
8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
18-22
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa.
Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu
nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông
rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì
bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một
trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần
các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô
của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà
rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và
các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Căn Tính Thần Linh nơi Nhân Vật Lịch
Sử Giêsu Nazarét
Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXV
Thường Niên, trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Marco của Chúa Nhật
XXV đầu tuần vừa rồi, cũng như trùng với bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
cho Thứ Năm Tuần XVIII Thường
Niên.
Cả 3 bài Phúc Âm đều thuật lại sự kiện dân chúng nói
chung và các môn đệ nói riêng cảm nhận về căn tính của Chúa Giêsu: "Phần các
con, các con bảo Thày là ai?". Ở Phúc Âm của
Thánh ký Marco thì câu trả lời của vị đại diện tông đồ đoàn bấy giờ là
Thánh Phêrô đã
thưa ngắn nhất: "Thày là Đức Kitô" (8:29), và ở Phúc Âm của Thánh
ký Mathêu câu trả lời của ngài lại dài nhất: "Thày là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" (16:16), còn ở bài Phúc Âm của Thánh ký Luca
hôm nay câu trả lời của ngài vừa phải, hòa hợp giữa 2 câu trả lời ngắn
dài trên đây: "Thầy
là Ðấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời tuyên xưng đức
tin của Thánh Phêrô được 3 Phúc Âm trong bộ Phúc Âm Nhất lãm thuật lại
hơi khác nhau về văn tự, nhưng nội dung vẫn như nhau. Ở chỗ "Thày
là Đức Kitô" (Phúc Âm Thánh Marco), cho dù "Đức
Kitô" ấy "của
Thiên Chúa" (Phúc Âm Thánh Luca) hay là "Con Thiên Chúa hằng sống"
(Phúc Âm Thánh Mathêu). Bởi vì, tự bản chất "Đức Kitô" phải là
Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bằng không, không phải là "Đức
Kitô".
Tuy nhiên, theo mạc khải
thần linh, "Đức Kitô" này, "Đức Kitô" được chung dân chúng
cảm nhận như là
một vị đại tiên tri,
như Gioan Tẩy Giả hay như Elia, cũng như được riêng các tông đồ tuyên
xưng đúng như căn tính của Người, đúng như sự thật nơi nhân vật lịch
sử Giêsu Nazarét này, lại có một dung nhan lưỡng diện, chẳng những có
mặt phải mà còn có cả mặt trái nữa.
Vậy nếu mặt phải của dung
nhan lưỡng diện này của "Đức Kitô" là gì, nếu không phải là
"Con
Thiên Chúa hằng sống"
(Phúc Âm Thánh Mathêu), thì
mặt trái của dung nhan Người là gì, nếu không phải là Đấng Vượt Qua, như
cả 3 Phúc Âm Nhất lãm này cho thấy, hay trong bài Phúc Âm của Thánh ký
Luca hôm nay thuật lại: "Con
Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật
sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Chính
mặt trái nơi dung
nhân của "Đức
Kitô" này đã
khiến cho chung dân Do Thái, đặc biệt là thành phần thày dạy lề luật của
họ là luật sĩ và biệt phái, nhất là Hội Đồng Đầu
Mục Do Thái lãnh đạo
trong dân,
thậm chí bao
gồm cả thành phần
môn đệ thân tín nhất của "Đức Kitô" là các tông đồ, tất cả đều
vấp phạm vì Người, tức không nhận ra Người, đến độ phản nộp Người, chối
bỏ Người, lên án Người, thách đố nhạo báng Người xuống khỏi thập giá để
họ tin Người quả thực là Đấng Thiên Sai (xem
Mathêu 27:39-42; Marco
15:29-32; Luca 23:35).
Thật vậy, làm sao dân
Do Thái nói chung và các tông đồ môn đệ của Người nói riêng có thể nhận
ra Người và chấp nhận Người được, nếu qua lời tiên báo về cuộc vượt qua
của Người lần thứ nhất này trở thành hiện thực, khi mà một "Đức Kitô"
khôn ngoan giảng dạy và quyền năng chữa lành ấy lại có một dung nhan
thật trái khuấy, hoàn toàn bị biến dạng trông vô cùng ghê rợn, đến độ
Người không còn dung nhan hình hài gì nữa (xem Isaia 52:14), thậm chí
Người còn trở nên như sâu bọ đất không còn là người (xem
Thánh Vịnh 22:7), một
sự thật quá ư là phũ phàng và vô cùng bất xứng với danh phận vô cùng uy
nghi cao cả và thiện
hảo của một Đấng Thiên Sai, "Con
Thiên Chúa hằng sống".
Trong đời sống tu đức cũng
thế, theo bản tính và khuynh hướng tự nhiên, không ai trong loài người
nói chung và Kitô hữu nói riêng lại yêu thích đau khổ thử thách, trái
lại, còn tìm cách xa lánh và tiêu diệt nó bao nhiêu có thể. Bởi thế, ai
cũng sung sướng khi được may lành và chúc phúc trong cuộc sống, cũng
như nơi
mọi việc mình làm, nhất là khi được ơn an ủi lúc mới bước
chân vào đường trọn lành hay khi mới tĩnh tâm xong v.v. Thế nhưng
khi đụng độ với đau khổ, tức khi giáp mặt với một "Đức Kitô" khổ
nạn và tử giá đầy thương tích vô cùng khủng khiếp và ghê rợn, mới
biết được cường độ đức tin của chúng
ta mạnh mẽ tới đâu,
mức độ đức cậy của chúng
ta vững chắc tới
chừng nào, và nhiệt độ đức mến của chúng
ta sốt nóng tới
độ nào!
Tuy nhiên, sở dĩ dân chúng nói chung và môn đệ thân tín của Chúa Kitô
nói riêng chưa thể chấp nhận được cái mặt trái đầy những phũ phàng ấy:
"Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị
các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày
thứ ba sẽ sống lại", đến độ Người đã phải "ngăn cấm các ông
không được nói điều đó với ai", điều được tông đồ Phêrô vừa tuyên
xưng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa", là vì chưa tới lúc hay tới độ
họ hiểu được, cho tới khi sự thật vô cùng huyện nhiệm này được hiện
thực, nhất là khi họ nhận được Thần Chân Lý là Đấng "dẫn họ vào tất
cả sự thật" (Gioan 16:13).
Đó là lý do Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm nay mới chí lý cảm nhận
rằng:
"Mọi sự đều có thì giờ của chúng. Vạn vật dưới bầu trời đều trải qua
thời gian của chúng... Có thời gian khóc lóc, thì cũng có thời
gian cười vui. Có thời gian than van, thì cũng có thời gian nhảy múa...
Có thời gian thinh lặng, thì cũng có thời gian nói năng... con người
không hiểu được việc Thiên Chúa đã làm từ đầu đến cuối".
Bởi thế, đối với Thiên Chúa, con người hãy tin tưởng cậy
trông vào Đấng Quan Phòng thần linh, không bao giờ bỏ họ, nhưng luôn
chăm lo cho họ, vào thời điểm của Ngài và bằng phương thế khôn ngoan của
Ngài, đúng như cảm nhận của các câu Thánh Vịnh 143 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! Chúa là Tình Thương và là
chiến lũy, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ
con nương náu.
2) Lạy Chúa, nhân loại là chi mà Chúa chăm nom, con người là chi mà Chúa
thương nghĩ tới? Con người ta như hơi gió thoảng, đời người ta như bóng
thoáng qua.
27/9
THÁNH VINH-SƠN PHAOLÔ
(1581-1660)
1. Đôi
dòng tiểu sử
Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vinhsơn sinh năm
1581 ngày 24 tháng 4, là con thứ ba trong gia đình 6 người con. Trong
những ngày còn thơ ấu, ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió
này, Vinhsơn đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng
quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho ngài những kinh
nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nảy
nở trong tâm hồn Vinhsơn. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối
với ngài, nhưng ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác
trên đường tới nhà máy xay, ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người
nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan Phaolô quyết hy
sinh cho Vinhsơn theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vinhsơn theo học các cha dòng
Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vinhsơn,
cha ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học
thần học tại Toulouse, Vinhsơn cũng vừa lo học vừa lo dạy kèm tư gia
kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục vào năm 20 tuổi, trong 2 năm, Vincentê biến
mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này
Vinhsơn ra sao. Người ta kể lại rằng có một goá phụ tại Toulouse đã tặng
cho ngài tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne vào
tháng 7 năm 1605 để nhận gia tài, ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một
ngư phủ. Không quen nghề, ngài lại bị bán cho một người Hồi giáo làm thợ
kim hoàn. Sau cùng, ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là
Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện ngài đã cải hoá được ông. Chính ông đã
đưa ngài trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo ngài đi Roma và vào hội bác
ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, Cha Vinhsơn bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của ngài, phục vụ
cho một xứ đạo gần Paris. Cha nhiệt thành với các linh hồn và được nhiều
người tín nhiệm. Nhìn cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường
bệnh như đã mở mắt cha Vincent để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng
quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời
của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà việc
đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện
nghi. Khi
được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai
chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở
Pháp.
Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc
này, Cha Vinhsơn có dịp quen biết Cha Phêrô Berulle, đấng sáng lập dòng
giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của Cha Phêrô
Bérulle, Cha Vinhsơn bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình.
Theo lời khuyên của Ngài, Cha Vinhsơn nhận làm tuyên uý cho gia đình
Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Cha Vinhsơn đã khám
phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và
biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài
quyết tâm sửa đổi thực trạng.
Cha Vinhsơn đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả
năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của
họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober
cho ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ
đạo, ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại
Paris ngài được sự trợ giúp của nữ
Bá Tước de Gondi, (có người đầy tớ được cha Vincent giúp đỡ), đã thúc
giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả
năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền.
Ngay lúc đầu cha Vincent thừa khiêm tốn để nhận làm người lãnh đạo cho
nhóm này.
Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, ngài tổ
chức “hội bác ái” trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho
người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris
tới Marseille. Sau
một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà
lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai hay tu
sĩ Dòng Thánh Vinh Sơn (the
Congregation thành Priests thành the Mission – Lazarists). Các linh
mục này, với các lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững,
tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc. Ngài
thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và
đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y
phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối
liền với danh hiệu Vinhsơn.
Sau này cha Vincent tổ chức các nhóm bác ái để chữa trị tinh thần cũng
như thể xác của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này,
với sự trợ giúp của thánh nữ Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử
Bác Ái (the
Congregation thành the Daughters thành Charity) “mà
tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là
đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Paris để quyên góp tài
chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân
chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái
tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt
lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện
tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, cha Vincent là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu
của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa
ngài sẽ “rất
khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một
người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn
phòng tại xứ thánh Lazane, ảnh hưởng của ngài lan rộng ra khắp nước
Pháp, tới Ba Lan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng
Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý
ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, ngài đã không ảnh hưởng
được tới đường lối của vị giám mục này, lại còn bị khổ vì ông khi nội
chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại
Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với
các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam ngài tại
phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thư cho các giám
mục lẫn linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ
trong nước. Các thư tín của ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê
người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái
ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vinhsơn cho thấy ngài là một
trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh
tâm ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm
hằng tháng ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt
lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của
ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, Cha Vinhsơn ngã bệnh liệt giường và dù đau đớn vì bệnh tật,
ngài vẫn vui tươi tin tưởng: Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội. Đối
diện với cái chết, ngài bình tĩnh: 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình
chết. Cha
Vincent qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris, nước Pháp,
thọ 80 tuổi. Vào
năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành
hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Đức
Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong Chân Phước cho cha Vincent đệ
Phaolô ngày 13 tháng 8 năm 1729. Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Clement XII
đã nâng cha Vincent đệ Phaolô – vị tông đồ của lòng bác ái lên hàng hiển
thánh ngày 16 tháng 6 năm 1737. Ðức Giáo Hoàng Leo XIII ngày 12 tháng 5
năm 1885 đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất
trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh Sơn, được thành lập
năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ thánh Vinh
Sơn.
Sau nhiều cuộc di dời, hài cốt thánh nhân được đặt trong một bức tượng
bằng sáp để trong một chiếc hòm xinh đẹp tại nguyện đường nhà mẹ dòng
thánh Vinh Sơn đường Rue de Sèvres, thành phố Paris. Phần đầu của pho
tượng giống hệt như đầu thánh nhân.
Tuy nhiên trái tim còn toàn vẹn của ngài được đặt trong một chiếc hòm
bằng vàng được bày kính trên bàn thờ đài vị kính ngài trong nguyện đường
trụ sở nhà mẹ của dòng Nữ Tử Bác Ái tại số 140 đường Rue du Bac, Paris.
Cách xa thánh tích thánh Vinh Sơn một chút, bên dưới bàn thờ cạnh là thi
hài nguyên vẹn của người con thiêng liêng của ngài là thánh nữ Catherine
Labouré, người được Đức Mẹ hiện ra và ban cho chiếc ảnh Đức Mẹ Hay Làm
Phép Lạ. Cũng trong nguyện đường này, trên bàn thờ cạnh còn có một chiếc
hòm kính có tượng sáp trong có xương của thánh nữ Louise de Marillac, vị
đồng sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái.
Lời Bàn
Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay
trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu
tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ – đó là những người trở nên cô
thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinhsơn Phaolô
rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày
càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với
tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
Lời Trích
“Hãy
cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn.
Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa
sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên
Chúa, vì Ngài thấy bạn không tôn kính Ngài đầy đủ với sự tin tưởng thánh
thiêng. Hãy tin tưởng vào Ngài, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy
những gì mà tâm hồn bạn khao khát”
(Thánh Vinhsơn Phaolô, Thư Từ).
Xác thánh Vincent ở đằng sau bàn thờ tại Nhà Nguyện Nhà Mẹ Dòng Nữ Tử
Bác Ái,
gần ngay đó là xác còn nguyên của nữ tu dòng này là Thánh Catarina
Labuaré
(hai tấm hình trên do TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, đã chụp dịp
Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017, ghé kính viếng
địa điểm Mẹ Ban Ơn hiện ra năm 1830 vào ngày 21/5/2017)
2. Những
nét nổi bật trong đời sống
+ Đầu tiên là
việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi
còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay
thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, thánh Vinh Sơn Phaolô đã
luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của
Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề
trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một
mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức
khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những
kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu
nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được
Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường
hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: cho kẻ đói ăn,
cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy
v.v...(x. Mt chương 25).
Chúa đã dậy mọi
người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng.
Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình.
Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương
và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh
Sơn Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu
đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo gương Chúa, thánh Vinh Sơn
Phaolô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người nghèo trong việc
phục vụ, lao động để gần gũi Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa.
Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ
Chúa.
+ Thứ đến là
lo cho họ, những người nghèo khó có các mục tử coi sóc họ. Chính vì thế
mà năm 1625, ngài đã sáng lập ra Tu hội “Linh
mục thừa sai” để
giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ
những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy,
công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn
lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của
ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở
thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo
trong Chúa Kitô.
Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện
thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo: “…
Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức
Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh
cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp
những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo,
nên đã chia sẻ thân phận của họ…”
Việc phục vụ người
nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô
trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu
hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao
cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phaolô tông đồ, khi Người
nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”
Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô
còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết
nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì
hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy
nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).
Chúng ta cùng nhau đọc lại giáo huấn về thực thi bác ái của
ngài sau đây được trích từ bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các
Nữ tử Bác ái, và được Giáo Hội chọn đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách.
PHẢI ƯU TIÊN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO
Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo
dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu
biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và
khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới
ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên
Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con
người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị
người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự
xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều
đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi,
giúp đỡ và bảo lãnh cho họ.
Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những
người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên
đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho
kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu
thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương
họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn
hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy
vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm
nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh
của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như
thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói: Tôi trở nên tất cả cho mọi người.
Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha
nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và
lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy
tràn.
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ
nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo
túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa
việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình
có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa
không bị lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là
bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác
tương đương.
Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ
rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề
luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt
vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ
người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị
bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tài liệu của Dòng tên, TGP Sài Gòn,
Theo Vết Chân Người / Chân Dung Các Thánh Nhân và Phụng Vụ Giờ Kinh Sách
27/9
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
II) Gv
11, 9 - 12, 8
"Trong những ngày thanh xuân, ngươi
hãy nhớ đến Ðấng Tạo thành ngươi; trước khi tro bụi sẽ trở về đất và hồn sẽ
trở về cùng Chúa".
Trích sách Giảng Viên.
Hỡi thiếu niên, hãy hân hoan trong
thời niên thiếu và tâm hồn ngươi hãy hưởng hạnh phúc trong những ngày thanh
xuân, hãy sống theo đường lối tâm hồn ngươi, và theo cái nhìn của mắt ngươi.
Nhưng ngươi hãy biết rằng Thiên Chúa sẽ xét xử ngươi về những điều đó. Ngươi
hãy loại bỏ sự giận ghét khỏi lòng ngươi, và hãy khai trừ sự gian ác khỏi
xác thịt ngươi: vì tuổi trẻ và khoái lạc đều là hư không.
Trong ngày thanh xuân, ngươi hãy nhớ
đến Ðấng Tạo thành ngươi, trước khi thời gian đau khổ tới và trước khi tới
thời gian mà ngươi sẽ nói: "Tôi không thích"; trước khi mặt trời, ánh sáng,
mặt trăng, tinh tú sẽ ra tối tăm, và trước khi mây đen kéo lại sau trận mưa,
khi kẻ giữ nhà run sợ, khi những kẻ anh dũng khiếp nhược, khi còn ít bà xay
bột cũng ngưng việc, khi mấy bà nhìn qua cửa sổ mà chẳng thấy gì, khi cửa
phố phường khép lại và tiếng cối xay nhỏ dần, khi người ta nghe tiếng chim
kêu mà chỗi dậy và tiếng hát của các thiếu nữ tắt dần đi, ở những nơi cao
người ta run sợ và trên đường đi người ta cũng khiếp đảm.
Hạnh đào sẽ trổ hoa, châu chấu sẽ béo
mập, cây phong điểu sẽ đâm chồi nảy lộc, vì con người sắp đi về nhà vĩnh
cửu, và kẻ than khóc rảo quanh mọi phố phường.
Trước khi dây bạc đứt tan, và bình
vàng vỡ nát, chiếc vò bể tan bên bờ suối, trục quay nước giếng gãy tan tành,
và tro bụi sẽ trở về đất, hồn sẽ trở về cùng Chúa, Ðấng đã tác tạo nó.
Giảng viên đã nói: Phù vân trên mọi
phù vân, và mọi sự đều là phù vân.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4.
5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy
Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên
nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa
khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
- Ðáp.
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ
màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt,
buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày
giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ
còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ
ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin
cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con; sự nghiệp tay
chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con
làm ra. - Ðáp.
Alleluia: Tv 114,
13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành
trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9,
44b-45
"Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông
không đám hỏi Người về lời ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả
các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: "Phần các con,
các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay
người đời". Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các
ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
Cảm Nghiệm
Thân phận của một Đức Kitô đích thực
Bài Phúc Âm cho Thứ
Bảy Tuần XXV Thường Niên hôm
nay về hình
thức cũng
không tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua ở cùng đoạn 9 của Phúc Âm Thánh ký
Luca,
nhưng về nội dung lại có tính cách liên tục và đồng
nhất.
Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm về điều kiện làm
môn đệ của Chúa Kitô (9:23-27), về biến cố biến hình trên núi
(9:28-36), và về
sự kiện Người trừ quỉ
cho một bé trai (9:37-43a), tương
tự như Giáo Hội đã bỏ 2 trong 3 biến cố này ở Phúc Âm Thánh ký Marco
trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Năm B Thường Niên đầu tuần này, mà chỉ
lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo cuộc vượt qua
của Người lần
thứ hai.
Đúng thế, bài Phúc Âm
hôm nay của Thánh ký Luca là bài Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu tiên
báo lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người:
"Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc
Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: 'Phần các con,
các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp
vào tay người đời'. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị
che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không
dám hỏi Người về lời ấy".
Như đã cảm nhận về dung
nhan lưỡng diện của
"Đức Kitô" trong bài
Phúc Âm hôm qua, một dung nhan có bộ mặt
trái rất ư là
kinh hoàng khiến cho chính vị trưởng tông đồ đoàn là Thánh Phêrô
cũng phải vấp phạm. Bởi thế, sau khi tiết lộ về mầu nhiệm vô cùng bí
mật này, Người chỉ
dám tiết
lộ sau khi đã
thấy được đức tin thật chính xác của
thành phần môn đệ tông đồ của Người, và
Người cũng đã phải tìm cách củng cố cho đức tin của các vị nữa, bằng
cách Người đã tỏ vinh quang của Người ra cho các vị một cách rạng
ngời, qua việc Người biến hình trên núi cao, ám chỉ cuộc phục sinh
khải hoàn của Người, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm đều thuật lại sau lần
tiết lộ đầu tiên ấy.
Trong bài Phúc Âm
của Thánh ký Luca hôm nay cũng thế, trước khi Người báo trước cuộc
vượt qua của Người lần thứ hai, một mầu nhiệm chưa thể nào thấu hiểu
và chấp nhận được đối với trí khôn phàm nhân của các tông đồ, nhất là đối với tâm thức của các vị về một Đấng Thiên
Sai đầy quyền năng giải phóng vẫn thường thấy trong Lịch sử Cứu Độ
của Dân Do Thái, Người
cũng phải lợi
dụng: "Ðang
lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người
phán cùng các môn đệ..." về mầu
nhiệm ấy, một mầu nhiệm quan trọng đến độ Người đã nhấn mạnh với các
tông đồ rằng: "các
con hãy ghi vào lòng những lời này...".
Phần các tông đồ,
thành phần đã từ bỏ mọi sự mà theo Người, không biết có phải hoàn
toàn vì lý do trần tục hay chăng, ở chỗ các vị hy
vọng sau
này có
thể được vẻ vang bởi các vị đã trở thành chân tay thân
tín của chính Đấng Thiên Sai đầy uy quyền của
Thiên Chúa, như
các vị đã có lần tranh nhau ngôi thứ, được Thánh ký Marco thuật lại
trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B? Cho dù
không hoàn toàn như thế, nhưng đứng trước một mầu nhiệm siêu
việt ấy, Phúc Âm hôm nay đã cho biết: "các
ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không
lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".
Trong Bài Phúc Âm hôm nay có một chi tiết
rất lạ lùng và phản nghịch nhau một cách chát chúa, đó là: "Ðang
lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người
phán cùng các môn đệ rằng: '... Con Người sẽ phải bị nộp vào tay
người đời'". Chi tiết hoàn toàn tương khắc nhau một cách chát
chúa, đó là đang khi Chúa đang nổi tiếng, càng ngày càng được dân
chúng hâm mộ, kính phục và theo đuổi, thì Người lại nói về thân phận
mà chẳng ai ngờ, chẳng ai muốn và có thể là chẳng ai muốn theo Người
nữa. Nếu nói theo kiểu trần gian thì đúng là Người chẳng khôn ngoan
tí nào, chỉ làm cho mình bị tổn thương trầm trọng và thiệt hại nặng
nề mà thôi.
Thế nhưng, Người không thể nào không
nói, hay cứ tiếp tục che đậy sự thật quá phũ phàng về Người, một
cách lừa đảo, chỉ có lợi cho mình mà không có lợi cho người, nhất là
thành phần môn đệ theo Người, để tùy họ tự quyết và lượng sức xem có
còn muốn tiếp tục theo Người nữa chăng, nếu còn thì họ hãy sửa soạn
sẵn sàng một tương lai mù mịt đen tối chụp xuống đời họ. Đó là lý do
mới có lời khuyên chí lý của Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1 hôm nay
cho riêng thành phần trẻ trung, như trường hợp các môn đệ của Chúa
Giêsu, những tâm hồn non dại trong Phúc Âm hôm nay, khi "các
ông không lĩnh hội được ý nghĩa".
"Hỡi thiếu niên, hãy hân hoan trong thời niên thiếu và tâm hồn
ngươi hãy hưởng hạnh phúc trong những ngày thanh xuân, hãy sống theo
đường lối tâm hồn ngươi, và theo cái nhìn của mắt ngươi.... Trong
ngày thanh xuân, ngươi hãy nhớ đến Ðấng Tạo thành ngươi, trước khi
thời gian đau khổ tới và trước khi tới thời gian mà ngươi sẽ nói:
'Tôi không thích'; trước khi mặt trời, ánh sáng, mặt trăng, tinh tú
sẽ ra tối tăm, và trước khi mây đen kéo lại sau trận mưa, khi kẻ giữ
nhà run sợ, khi những kẻ anh dũng khiếp nhược,... và tro bụi sẽ trở
về đất, hồn sẽ trở về cùng Chúa, Ðấng đã tác tạo nó'".
Đúng thế, tự mình, theo bản tính hạn hẹp và
bất lực của loài người, họ thật sự là non dại, nếu không có Chúa,
nếu Chúa không ở cùng họ, ban ơn cho họ, thành phần muốn trở thành
người lớn, nghĩa là muốn khôn ngoan thì cần phải biết bám lấy Chúa:
"Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua
đời kia", một tâm tình được
bộc phát nguyên văn trong Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, một Câu
Họa bao gồm tất cả nhận thức chân thực về thời gian ngắn ngủi, về
cuộc đời tạm bợ mau qua của con người, về Thiên Chúa hằng hữu và sự
sống bất diệt:
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm
qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người
trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như
cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó
bị xén đi và nó héo khô.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được
lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ?
Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng
con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được
hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con; sự nghiệp tay chúng con
làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con
làm ra.
Ngày 28/09
Thánh Venceslao
Thánh Venceslao cai trị Bôhêmia vào thời mà miền này mới chỉ có một phần
theo Kitô giáo. Cha Ngài, ông Vratilar, là người khôn ngoan dũng cảm lương
thiện, một Kitô hữu nhân đức nhưng bà Drahomira mẹ Ngài lại ngả theo lương
dân. Em Ngài là Boleslao. Ludmila, bà nội của hai con trẻ, thấy rõ sự nguy
hiểm cho cháu nên đã lo giáo dục Venceslao. Còn thánh Venceslao, con người
có nhiều đức tính đáng phục đã đáp ứng hoàn toàn sự lo lắng của bà nội. Từ
đó Ngài đã có lòng mộ mến các nhân đức, siêng năng tìm hiểu lẽ đạo để sống
thành một Kitô hữu chân chính.
Chẳng may ông Vratilar từ trần trong một trận chiến. Bà Drahomira lên nắm
quyền nhiếp chính. Bà độc ác và gian xảo, bà đã sát hại các Kitô hữu, triệt
hạ các nhà thờ, cấm hành đạo công khai và dạy giáo lý cho trẻ em. Các Kitô
hữu có chức phận bị cách chức, nhường chỗ cho lương dân.
Đau lòng vì sự dữ lan tràn, bà Ludmila thuyết phục Venceslao lên nắm quyền.
Nhưng để tránh cuộc tranh chấp tương tàn, người ta chia đôi lãnh thổ, một
phần trao cho Boleslaô. Lên cai trị với sự tán đồng của dân chúng, thánh
Venceslaô chỉ mong cho thần dân được hạnh phúc. Ngài cai trị bằng lòng nhân
từ hơn là bằng sức mạnh. Ngài lo trợ giúp mọi cô nhi quả phụ, mọi người
nghèo khổ. Thỉnh thoảng trong đêm tối, Ngài vác củi đến cho người bất hạnh,
Ngài phóng thích các tù nhân và tìm đến an ủi họ. Nếu phải kết án, chính
Ngài đã khóc thương. Ngài luôn kính phục các Linh mục, tự trồng nho ép rượu
và giúp lễ. Đêm đêm, Ngài đi chân không đến viếng các nhà thờ. Trong một
cuộc hành hương như vậy, người hầu cận cho biết chân mình đã tê cóng không
thể đi thêm được nữa. Thánh nhân dặn, hãy đạp lên vết chân Ngài. Anh ta đã
vâng theo và cảm thấy ấm áp toàn thân.
Drahomira tức giận vì sự êm ấm trong miền Bôhêmia theo Kitô giáo. Bà quyết
sát hại Ludmila, người đàn bà nhân đức làm cố vấn cho Venceslao. Hai kẻ sát
nhân đã hành sự ngay dưới chân bàn thờ. Sau đó đến lượt thánh Venceslao,
người mẹ ác đức đã xúi Radislas nổi loạn. Ông này tập trung một đạo quân
hùng hậu đến gây chiến. Khi hai bên giáp trận, thánh Venceslao đã đơn phương
độc mã lâm trận chiến như một David giáp mặt Goliath. Thế nhưng Radislas đã
xin đầu hàng. Ông ta thấy thiên thần trợ chiến cho Venceslao.
Một lần phải đến tham dự một cuộc họp ở Worm theo lệnh của Hoàng đế Othon I,
thánh Venceslao đã tới trễ. Ngài muốn dự hai thánh lễ. Hoàng đế bực tức vì
sự chậm trễ này, quyết định sẽ không đứng dậy khi thánh nhân đến. Nhưng rồi
khi Ngài tới nơi, ông bỗng đứng lên và mời ngồi bên cạnh mình. Ông cũng đã
thấy hai thiên thần hộ vệ và bao phủ Ngài bằng một thánh giá vàng.
Boleslaô, theo lời khuyên của mẹ, quyết hạ sát thánh nhân, hắn lấy tình
nghĩa để che lấp ý đồ đen tối của mình. Được mời tới để mừng lễ hai thánh
Cosma và Đamianô, thánh Venceslao không một chút nghi ngại gì. Buổi lễ thật
linh đình. Đêm sau thánh Venceslao đến nhà thờ cầu nguyện như thói quen.
Boleslaô tàng hình theo sau và đã hạ sát thánh nhân ngày 28 tháng 9 năm 935.
Trước cửa đền thờ, miệng khẩn cầu ơn tha thứ cho em mình. Thánh nhân từ trần
trên vũng máu đào. Sau cái chết, thánh Venceslao được dân chúng tôn kính như
một vị tử đạo và trở thành đấng thánh bảo trợ cho xứ Bôhêmia, nay là
Czecheslavia.
Mừng lễ thánh Venceslao, xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho
mỗi chúng ta lòng can đảm dám sống cho sự thật và tình yêu.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-28-09-thanh-venceslaotu-dao-50177 và http://giaophanvinhlong.net/thanh-venceslao.html cả
2 đều giống hệt như nhau
Thánh Laurensô Ruiz
Thánh Laurensô Ruiz là vị thánh đầu tiên của Giáo hội Philippines.
Ngài là gia trưởng của gia đình có ba người con. Giáo hội Philippines chọn
ngài là vị thánh bảo trợ cho thanh niên Philippines và những người lao động
Philippines làm việc ở nước ngoài.
Ngày lễ hôm nay dành để
tôn kính một nam giáo dân gốc người Philippin. Thánh Laurensô Ruiz và 15
người bạn đã tử vì đạo để minh chứng đức tin tại Nagasaki, Nhật Bản, vào năm
1637. Sinh tại thành phố Manila, Laurensô lập gia đình và có ba người con.
Ngài gia nhập với một nhóm người gồm 9 linh mục thuộc dòng Đa Minh, 2 tu sĩ
và 4 giáo dân tình nguyện tới Nhật Bản rao giảng Tin mừng. Tất cả cùng liên
kết với dòng Đa Minh và tất cả cùng thà hy sinh mạng sống hơn là chối bỏ
niềm tin vào Đức Giêsu. Các ngài là những người nam, người nữ có quốc tịch
khác nhau: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Philippin. Các ngài quả thật là
hình ảnh nhắc nhớ chúng ta: Giáo hội của Chúa Kitô đã lan rộng ra khắp hoàn
cầu!
Các thánh tử đạo này đã
chịu đau khổ nhiều trước lúc qua đời, nhưng các ngài vẫn một lòng giữ vững
đức tin Công giáo. Người ta ghi nhận rằng thánh Laurensô Ruiz đã nói với các
vị quan tòa xử ngài rằng: “Nếu tôi có 1000 mạng sống để dâng cho Đức Kitô,
thì tôi sẽ vui mừng dâng từng mạng sống của tôi cho Người!”
Laurensô Ruiz sinh vào khoảng năm 1600 tại Binondo, Manila, Philippines, có
cha là người Tây Ban Nha, mẹ là người Philippines. Từ thuở nhỏ, Laurensô
Ruiz đã gia nhập ban lễ sinh của giáo xứ, khi trưởng thành là thành viên của
nhóm truyền giáo dòng Đaminh.
Năm 1636, khi phụ việc trong văn phòng của họ đạo Binondo, ngài bị vu
oan là đã sát hại một người Tây Ban Nha. Để khỏi bị xử tử, ngài đã
cùng với các nhà truyền giáo dòng Đaminh trốn sang Nhật Bản. Tại
Nhật đang có cuộc bách hại đạo, nên các ngài bị bắt khi tàu cập bến ở
Okinawa. Ngày 27.9.1637, Laurensô Ruiz và những người bạn bị đưa đến
Nagasaki và bị hành hạ một cách kinh khủng. Cuối cùng, các ngài bị
treo ngược, với một vết cắt trên trán, chịu đau khổ từ từ cho đến
chết trong một cái hố bẩn thỉu.
Trong khoảng thời gian từ 1633 đến 1637, cùng với Laurensô Ruiz, đã có 15 vị
tử đạo là thành viên hoặc có liên hệ với dòng Đaminh đổ máu đào tại
Nagasaki. Các ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước
ngày 18.2.1981 tại Manila và tuyên thánh ngày 18.10.1987. Lễ kính các vị tử
đạo được cử hành vào ngày 28 tháng 9 hằng năm.
Chúng ta hãy nài xin
thánh Laurensô Ruiz và các Bạn tử đạo thôi thúc các Kitô hữu hôm nay biết
trở nên những môn đệ nhiệt thành và quảng đại của Đức Chúa Giêsu. Càng học
biết về đức tin bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến và chia sẻ với tha nhân bấy
nhiêu.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-laurenso-ruiz-va-cac-ban-tu-dao_a7946
3 Phụ Bản về Thánh Piô Năm Dấu:
(tiếp theo ngày Thứ Hai là ngày lễ kính
ngài ở đầu tuần trên đây)
fr.aleteia.org,
2017-04-24
Chúng ta biết Thánh Dòng Capuxinô của San Giovanni Rotondo không
tránh được thử thách nhưng ngài cũng có rất nhiều ơn lớn đền bù lại.
Tuy nhiên ít ai biết tính hài hước của ngài!
San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng
Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916
cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là
thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni
Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm
Cha Pio kể từ những năm 1930.
Đi đứng
cẩn thận nghe!
Một ông đi đến tận San Giovanni Rotondo để gặp Cha Pio, nhưng có rất
đông người ở đó nên ông phải đi về nhà mà không gặp được ngài. Trong
lúc ông đi xa tu viện, thì ông ngữi thấy một mùi hương từ các thánh
tích của cha và ông cảm thấy mình được an ủi.
Vài tháng sau, khi ông đi qua một vùng núi, ông cũng ngữi thấy một
mùi hương như vậy. Ông ngừng lại và ông ngây ngất trong một lúc khi
ngữi thấy mùi hương thơm ngát. Khi sực tỉnh lại thì ông thấy mình ở
bên bờ vực thẳm, không có mùi hương của Cha Pio thì e ông đã tiếp
tục đi tới.
Ông quyết định đi về San Giovanni Rotondo ngay lập tức để cám ơn Cha
Pio. Khi ông đến tu viện, Cha Pio từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp
ông, ngài gọi ông lại vừa cười vừa nói: “Con của ta, lần sau đi đứng
cẩn thận nghe!”.
Dưới tấm
nệm
Một phụ nữ bị bệnh nhức đầu kinh khủng đến mức bà quyết định để một
tấm hình của Cha Pio dưới gối, hy vọng cơn đau sẽ hết. Sau nhiều
tuần, cơn nhức đầu vẫn còn; tính khí nóng nảy của người Ý làm bà
than lên: “Này Cha Pio, cha không làm cho con hết bệnh, con phạt
cha, con để cha dưới tấm nệm”.
Vài tháng sau bà đến San Giovanni Rotondo để xưng tội với Cha Pio.
Bà vừa quỳ vào tòa giải tội thì cha nhìn bà chăm chăm, cha đóng cánh
cửa tòa giải tội một cái rầm. Bà hoảng người, bà không hiểu tại sao
cha phản ứng như vậy, bà không thốt nên lời. Vài phút sau, cánh cửa
tòa giải tội mở ra, Cha Pio vừa cười vừa nói với bà: “Đúng là con
không hài lòng phải không? Để thế cho con biết, cha cũng không hài
lòng khi con để cha dưới nệm!”.
Các lời
khuyên của Cha Pio
Một linh mục Argentina nghe tiếng các lời khuyên của Cha Pio, linh
mục quyết định đi đến tận Ý với mục đích duy nhất là xin lời khuyên
quý báu của ngài để ngài hướng dẫn mình trong đời sống thiêng liêng.
Khi đến nơi, linh mục đi xưng tội với cha và về nhà mà không nhận
một lời khuyên nào.
Về lại Argentina, linh mục rất thất vọng, cha thấy có nhu cầu phải
nói cho mọi người biết. Linh mục lấy làm tiếc: “Tôi không hiểu tại
sao Cha Pio không nói gì với tôi. Vậy mà tôi đi từ Argentina qua Ý
để chỉ muốn nghe lời khuyên của ngài… Cha Pio đọc được trong tư
tưởng người khác, ngài biết là tôi đến chỉ để xin ngài lời khuyên”.
vv và vv…
Cha than phiền đến mức mà các giáo dân bắt đầu hỏi cha: “Cha, cha có
chắc là Cha Pio không nói gì không? Cha Pio có làm cử chỉ gì khác
thường không?”.
Vị linh mục từ từ suy nghĩ và cuối cùng cha nhớ lại Cha Pio có làm
một cử chỉ hơi là lạ. Cha giải thích cho các giáo dân: “Ngài ban
phép lành cuối cùng cho tôi, ngài làm dấu thánh giá cực kỳ chậm, đến
mức tôi nghĩ, e chẳng khi nào xong?” Nghe xong, các giáo dân kêu
lên: “Vậy là Cha Pio đã cho cha lời khuyên! Cha, cha ban phép lành
quá nhanh, giống như cha làm nguệch ngoạc cho xong chứ không phải
làm dấu thánh gia!ù”. Nghe xong, vị linh mục vui mừng vì cuối cùng
cha biết được lời khuyên đặc biệt của Cha Pio.
Người giữ
nhà và các tên trộm
Các tên trộm hoành hành ở một khu phố Rôma làm cho một người dân ở
đó không đi thăm Cha Pio được. Nhưng cuối cùng ông đi, ông khóa cửa
kỹ và “ra điều kiện” cho Cha Pio: “Cha, bây giờ con đi thăm cha
nhưng cha giữ nhà cho con…”.
Khi đến San Giovanni Rotondo, ông xưng tội với Cha Pio. Ngày hôm
sau, ông đến chào cha để đi về, cha trách ông: “Con, con còn ở đây
à? Cha đang toát mồ hôi giữ cửa cho con!”.
Ông đi về nhà ngay lập tức, lòng chưa hiểu ngài muốn nói gì với
mình. Về đến nhà, ông nhận ra bọn trộm đã đến, chúng đã bẻ ống khóa
nhưng trong nhà không mất gì hết”.
Trẻ con
và kẹo bánh
Một phụ nữ đã lâu không đến thăm Cha Pio, bà khổ sở nghĩ cha đã quên
mình. Như thường lệ, một buổi sáng nọ, sau khi phó giao con gái mình
cho cha che chở, bà đi lễ. Khi về nhà, bà thấy con mình đang ăn kẹo
ca-ra-men. Ngạc nhiên bà hỏi con “ai cho con kẹo?”. Đứa bé vui vẻ
chỉ hình Cha Pio treo bên trên cái “cũi em bé” mà mỗi lần bà đi vắng
chốc lát bà để con vào đó. Nghe con kể, bà mẹ không lấy làm quan
trọng gì.
Sau một thời gian, lại lo không biết Cha Pio đã quên mình chưa, bà
đến thăm cha. Sau khi xưng tội, bà hôn tay cha. Khi đó cha vừa cười
vừa hỏi bà: “Con, con cũng muốn cây kẹo ca-ra-men phải không?”.
Một người
sói tóc
Một người bị rụng tóc nhưng dứt khoát không muốn mình bị sói. Một
ngày nọ ông đến gặp Cha Pio và xin cha: “Xin cha cầu nguyện để tóc
của con đừng rụng nữa”.
Chính lúc đó thì Cha Pio đi xuống cầu thang. Ông lo lắng nhìn cha
mong cha trả lời cho mình. Khi đến gần cha, ông thấy nét mặt của cha
thay đổi, và với một cái nhìn như đề nghị một cái gì với ông, ngài
chỉ một người đang ở sau lưng ngài, ngài nói với ông: “Con giới
thiệu con với ông ấy đi”. Ông quay lại thì thấy một linh mục sói tóc
hoàn toàn, cái đầu láng bóng như tấm gương. Và mọi người cười ngất.
Ném giày
Một giáo dân của Cha Pio bị đau răng khủng khiếp, đau đến mức không
chịu nổi, vợ của ông đề nghị: “Tại sao anh không cầu nguyện với Cha
Pio để cha chữa cho bớt đau? Đây, hình của cha đây, anh cầu nguyện
với cha đi”. Ông chồng giận dữ la hét: “Đau răng như thế này, em
không có thuốc men gì mà bắt anh cầu nguyện hả?”. Ông cầm chiếc giày
ném hết sức mình vào hình của Cha Pio.
Vài tháng sau bà vợ thuyết phục được chồng đi xưng tội với Cha Pio ở
San Giovanni Rotondo. Ông quỳ trong tòa giải tội và ông đọc một dọc
các tội của mình. Nghe ông đọc xong, cha Pio nói với ông: “Có tội
nào con quên không?”. “Dạ hết rồi!”. “Hết thật rồi à? Vậy còn
tội con ném chiếc giày ngay mặt cha thì sao?!”
Một lời
chào “lớn thật lớn!”
Cô con gái thiêng liêng của Cha Pio ở lại San Giovanni Rotondo ba
tuần với mục đích duy nhất là được xưng tội với cha. Không xưng
được, cô chưa muốn về lại Thụy Sĩ vì cô quá buồn. Bỗng cô nhớ, mỗi
ngày cha thường ra cửa sổ ở căn phòng nhỏ của ngài để ban phép lành.
Lòng đầy hy vọng, cô nghĩ, ít nhất là mình có thể nhận phép lành của
cha trước khi về. Cô đi nhanh về phía tu viện. Trên đường đi, cô
mong: “Mong sao cha chào cho riêng mình một lời chào “lớn thật lớn”.
Khi đến tu viện, cô chỉ thấy còn vài người rải rác. Cha Pio đã ban
phép lành. Cha đã chào tất cả mọi người, cha dùng khăn tay trắng
phất phất để chào và cha đã về phòng nghỉ ngơi.
Một nhóm phụ nữ lần hạt mân côi ở đó cho cô biết như vậy, cô đừng
hoài công chờ. Cô không thất vọng, cô quỳ xuống cùng với các bà
khác, trong lòng thầm thì: “Không sao, con chỉ mong có được lời chào
“lớn thật lớn” cha dành riêng cho con. Vài phút sau, cửa sổ căn
phòng Cha Pio mở ra và cha ban phép lành lại, cha dùng tấm khăn trải
giường phất phất thay vì dùng khăn tay trắng như thường lệ. Ai cũng
cười, một bà còn nói: “Nhìn kìa, hôm nay cha điên rồi!”.
Người con gái thiêng liêng của cha cảm động, nước mắt tuôn trào vì
cô biết, đó là lời chào “lớn thật lớn” mà cô đã xin cha chào cô.
Đứa con
trai và các viên kẹo
Từ lâu đứa con trai của một ông đội dân vệ mơ có chiếc xe lửa bằng
điện. Ngày Lễ Ba Vua sắp đến, em đến trước ảnh Cha Pio treo trên
tường hứa: “Cha Pio nghe con nè, nếu cha làm sao cho con có một
chiếc xe lửa bằng điện, con sẽ cho cha một túi kẹo”.
Ngày Lễ Ba Vua đến, đứa con trai nhận được chiếc xe lửa em mong chờ
lâu nay. Sau đó, em theo dì đến Giovanni Rotondo thăm cha. Cha Pio
âu yếm cười hỏi em: “Còn túi kẹo của cha đâu?”.
Vì hai
trái vả!
Một ngày nọ, một bà rất sùng kính Cha Pio đã ăn quá hai trái vả. Bị
dày vò vì nghĩ mình tham ăn, bà hứa là sẽ đi xưng tội với cha khi có
dịp.
Và dịp may đến, bà đi San Giovanni Rotondo. Sau khi xưng tội xong,
bà lo lắng xưng thêm: “Thưa cha, con có cảm tưởng con đã quên một
tội và có thể đây là một tội khá khá nặng”. Cha trả lời: “Con đừng
lo, hai trái vả thì chẳng có gì là nặng!”.
Con nghĩ
là cha sẽ lấy nàng sao?
Cha Pio cử hành một thánh lễ hôn phối. Khi đến lúc quan trọng của
buổi lễ, vì quá xúc động, chú rể không tài nào nói “vâng” theo nghi
thức được.
Cha Pio chờ một lúc, rồi cha cười khuyến khích anh, nhưng cố gắng
bằng mấy anh cũng không nói được, cuối cùng cha la lên: “Con muốn
nói “vâng” hay con nghĩ chính cha sẽ lấy… cô dâu?!”.
Cha, xin
cha cầu nguyện cho các con còn nhỏ của con
Một bà rất mộ đạo, bà không cách nào ngủ được nếu không giao phó tất
cả con mình cho Cha Pio. Chiều nào bà cũng quỳ trước ảnh của Cha Pio
và xin: “Cha Pio, con xin giao phó các con của con cho cha”.
Trong ba năm trường, tối nào cũng lặp lại một lời cầu nguyện này,
cuối cùng bà đến được San Giovanni Rotondo. Khi bà gặp cha, bà nói:
“Thưa cha, con xin giao phó các con của con cho cha”. Cha trả lời:
“Con của cha, cha biết. Đã ba năm nay, ngày nào con cũng lặp lại
cùng một chuyện, mỗi ngày!”.
Còn con
thì con cười chế nhạo phải không?
Một phụ nữ ngưỡng mộ Cha Pio, mỗi ngày bà đều có thói quen quỳ cầu
nguyện trước ảnh Cha Pio để xin cha ban phép lành cho mình. Chồng
của bà cũng rất ngưỡng mộ cha, nhưng ông không thể nào nhịn cười vì
ông thấy vợ mình làm quá. Tối nào cũng lặp lại cảnh này giữa hai vợ
chồng.
Có dịp hai vợ chồng cùng đi thăm Cha Pio. Ông chồng nói với cha:
“Thưa cha, tối nào vợ con cũng xin cha ban phép lành”, Cha Pio trả
lời: “Còn con thì con cười chế nhạo phải không?”.
Marta An Nguyễn dịch
San Giovanni Rotondo là một
thành phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha
Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm
1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi,
trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch
trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm
1930.
catholicnewsagency.com, Elise Harris, 2016-09-22
Nổi tiếng trên thế giới với tên ngắn gọn “Cha Piô”, Cha Thánh Piô
Pietrelcina được xem là một trong “các thánh tích cực nhất” của Giáo
hội. Ngài tiếp tục làm phép lạ cho những ai cầu bàu đến ngài.
Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin AIIC, linh mục John Paul Zeller,
Dòng Phanxicô Truyền giáo ở Birmingham, Alabama, nước Mỹ đã tuyên
bố: “Cha Thánh Piô là một trong những người cầu bàu rất mạnh … Một
linh mục nói với tôi, có thể đây là một trong các thánh tích cực
nhất của Giáo hội”.
Linh mục Zeller có được thánh tích Cha Piô, cha cho biết chính mình
đã là chứng nhân của nhiều phép lạ sau khi cầu bàu với thánh tích
của ngài trong tay.
Mới đầu cha Zeller không sốt sắng đặc biệt gì với Cha Piô, nhưng một
năm sau khi đi San Giovanni Rotondo về và sau lần phong thánh Đức
Gioan-Phaolô II năm 2014, thì cha có một lòng sốt sắng với Cha Piô.
San Giovanni Rotondo là nơi Cha Piô đã ở suốt đời và phục vụ tại đó.
Sau khi tìm hiểu cuộc đời của Cha Piô, cha Zeller rất xúc động, cha
lấy hết can đảm để xin một trong các bề trên ở San Giovanni Rotondo
thánh tích của Cha Piô. Bề trên cho không những một mà hai thánh
tích, đó là mẫu băng có dính máu Cha Piô trong các dấu thánh của
ngài.
Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5-1887 trong một gia đình mộ đạo ở
Pietrelcina, nước Ý. Cha có tên thật là Francesco Forgionele. Năm 15
tuổi cha vào Dòng Capuxinô. Cha nhận dấu thánh suốt 50 năm trong
cuộc đời của mình. Cha đã làm rất nhiều điều kỳ diệu và phép lạ,
chữa lành, soi thấu tâm hồn, bay lên khỏi mặt đất, ở hai nơi cùng
một lúc.
Linh mục Zeller cho biết, sau khi nhận hai thánh tích, cha trao lại
cho cộng đoàn của mình do Mẹ Angelica thành lập một thánh tích và
mình được phép giữ một thánh tích.
Cha nói: “Tôi luôn giữ thánh tích này trong người, vì tôi là Giám
đốc tổ chức hành hương của trụ sở EWTN ở Birmingham, nên tôi có dịp
cầu nguyện với nhiều người”.
Cha giải thích: “Tôi cầu nguyện với nhiều người và có những trường
hợp được chữa lành. Nhiều người đến sau một tháng, có khi sau một
năm cho tôi biết họ đã được lành nhờ cầu nguyện với thánh tích”.
Một kinh nghiệm như vậy đã xảy ra các đây vài tháng trong lần chữa
lành ở đền thánh Trái Tim Cực Thánh ở Hanceville nhân ngày lễ Đức Mẹ
Fatima, cha và hai linh mục khác cầu nguyện với hai thánh tích của
Cha Piô, cùng với chiếc găng của Cha Piô thuộc về Mẹ Angelica. Khi
cầu nguyện, một phụ nữ bị đau thần kinh tọa đến xin cầu nguyện cho
bà. Sau này bà đến nói với cha, khi về chỗ ngồi, bà nói với chồng
“tôi đã được lành”.
Chứng thần kinh tọa là bệnh đau lưng, rất đau và thường không dứt
hẳn nhưng phụ nữ này đã được lành hẳn sau khi cầu nguyện với thánh
tích.
Một trường hợp khác, sau một thời gian không lâu nhận thánh tích,
cha Zeller có dịp nói chuyện với bạn của mình và biết con gái 12
tuổi của họ bị đau tai lâu năm. Cha hỏi em bé xem cha có được cầu
nguyện với thánh tích cho em không, em đồng ý, “tôi cho mẹ em và cho
em thấy thánh tích và tôi hỏi em đau tai nào!”
Cha kể, khi cha vừa đặt thánh tích vào tai và bắt đầu cầu nguyện thì
em té xuống đất. “Em hoàn toàn tuột khỏi tay tôi. Tôi có thể níu em
lại, nhưng tôi không biết chuyện gì xảy ra, tôi rất sợ có chuyện gì
xảy đến cho em, nhưng em hoàn toàn vuột khỏi tay tôi và té xuống
đất. Cha cho biết khi mình đang lo thì mẹ của em bình tĩnh và nói
‘có thể là được chữa trong Thần Khí’”.
Cha nói: “Nhiễm trùng tai hoàn toàn khỏi hẳn, từ lúc đó theo những
gì tôi biết thì em không còn bị nhiễm trùng lại”.
Trong một trường hợp khác, có một phụ nữ bị đau tim trong vòng 40
năm, bà đau suốt đời, cha cho biết mình không có thì giờ để biết
thêm nhiều chi tiết nhưng bà khỏi hẳn sau khi cầu nguyện với thánh
tích của Cha Piô.
Cha giải thích: “Đây là câu chuyện dài hơn thế, nhưng bà lành hẳn”.
Cha cũng nhắc đến một trường hợp khác, một bà vừa đến nói với cha,
bà được lành bệnh nhờ cầu nguyện với thánh tích.
Nhắc đến các việc chữa lành lành, cha Zeller nhấn mạnh, không phải
cha chữa lành nhưng nhờ lời cầu bàu với Cha Piô.
Cha cho biết, cách đây vài năm mình không có một lòng sốt sắng đặc
biệt với Cha Piô, linh mục nói, cha cảm nhận có một nối kết bất ngờ
đến với mình vì Cha Piô chọn cha chứ không phải ngược lại.
Cha tuyên bố: “Một trong các giáo sư chủng viện thường hay nói với
chúng tôi, chúng ta không chọn các thánh, chính các thánh chọn chúng
ta. Nếu chúng ta có một cảm tính đặc biệt với thánh nào… Tôi nghĩ
thật sự các thánh đã chọn chúng ta, chứ không phải chúng ta chọn các
ngài”.
Cha Thánh Piô là “ người anh em vui vẻ”, cha Zeller giải thích mình
luôn nghĩ Cha Piô “rất nghiêm” và sợ cầu bàu với cha, sợ Cha Piô
nghiêm với mình. Tuy nhiên trong chuyến đi đến San Giovanni Rotondo,
cha hiểu Cha Piô hơn, theo cha Zeller, bề ngoài Cha Piô có vẻ nghiêm
là vì “ngài biết khi giáo dân không ăn năn hối cải”.
Cha nói: “Cha Piô lo cho sự cứu rỗi các tâm hồn. ngài quan tâm và
mang lòng thương xót Chúa, mang sự tha thứ của Chúa đến cho giáo
dân”.
Hàng năm vào tháng 9, nhân kỷ niệm ngày Cha Piô qua đời, giáo dân
khắp nơi tụ về giáo xứ Rôma San Salvatore ở Lauro, bên cạnh Piazza
Navona, Rôma, một trung tâm dành cho các sinh hoạt liên hệ đến ngày
lễ của Cha Piô. Tại đây có rất nhiều thánh tích của Cha Thánh Piô,
áo măng-tô, găng tay, khăn các phép và khăn thấm máu trong các dấu
thánh cha mang suốt 50 năm đời mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Tượng
Cha Piô giúp Chúa Giêsu vác thánh giá ở nhà thờ Rôma San Salvatore
Trích
sách “Lời hay ý đẹp của Cha Piô”, Pascal Cataneo, Nxb Médiaspaul
Carlo Campanini là một trong các người con thiêng liêng được Cha Piô
yêu mến, ông cũng là một diễn viên nổi tiếng, một ngày nọ ông nói
với chúng tôi: “Cha Piô thích kể chuyện đùa, về chuyện này cha giỏi
hơn tôi. Cha nắm được nghệ thuật làm ngắn gọn và đối đáp như một
diễn viên lớn”. Trên lãnh vực này, chúng ta có thể tin ở ông.
Một ký giả nổi tiếng viết: “Cha Piô là người có tài kể chuyện, sống
động và xuất sắc. Đặt cha vào chân tường, cha có thể dụ dỗ rất giỏi
để thoát ra. Nếu chưa thoát ra được, cha sẽ làm cho người đối diện
lạc hướng bằng những lối đi kỳ quái, những lời nói châm biếm. Cha có
thể viện đến tài bắt chước của nghệ sĩ mà một thính giả thông minh,
dù đã cảnh giác cũng không thể không mến chuộng. Nhưng nhất là nghệ
thuật ăn nói hóm hỉnh, một năng khiếu hiếm hoi không ai là không
thấy”.
Hơn nữa nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh của cha không bao giờ là ngẫu
nhiên, cha dùng nó trong sứ vụ chức thánh của mình. Những câu chuyện
hài của Cha Piô thì nhiều vô số kể. Tôi chỉ ghi lại một số chuyện để
độc giả có một khái niệm về tính hài hước của cha.
Một tân
binh chuẩn bị đón vua
Một trung sĩ chuẩn bị cho một tân binh để anh này trả lời các câu
hỏi của vua khi vua đến thăm trại. Ông trung sĩ dạy cho anh học
thuộc lòng các câu vấn đáp sau:
– Anh mấy tuổi?
– Hai mươi hai tuổi.
– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?
– Hai năm.
– Anh nguyện phục vụ ai nhất: vua hay tổ quốc?
– Cả hai!
Ông vua đến, và xui xẻo cho anh, ông vua không hỏi theo thứ tự mà
anh tân binh học, nhưng hỏi như sau:
– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?
– Hai mươi hai năm.
– Anh mấy tuổi?
– Hai.
Ông vua sốt ruột kêu lên:
– Hoặc là anh ngu, hoặc tôi ngu!
Anh tân binh trả lời:
– Cả hai!
Cha Piô
cười trong khi nghe giảng
Một trong các bạn tu của Cha Piô thấy cha cười đang khi nghe giảng.
Người bạn hỏi thẳng cha: “Cha, vì sao hôm qua cha cười khi nghe
giảng về cái chết?”
Cha Piô trả lời bằng tiếng địa phương vùng Napoli: “Tôi phải làm gì
bây giờ? Tôi không thể nhịn được: một vài người giảng làm cho mình
cười bất cứ cái gì, kể cả cái chết!”
Cha Piô
không sợ sét đánh
Một ngày nọ, Cha Piô và một bạn đồng tu ở trong hành lang khi có cơn
giông bảo sấm sét lớn. Bạn của cha thấy sét đánh rất gần. Sợ hãi,
ông nói với cha và lưu ý cha vì họ ở gần cột điện, ông nói: “Cha, ít
nhất mình đi xa cột điện này. Ngày hôm qua, sét đánh chết mười
người!” Cha Piô trả lời: “Vậy thì sao phải sợ, mình không bị hiểm
nguy này, mình chỉ có hai!”
Cha Piô…
chỉ có hai mươi xu
Một ngày nọ, Cha Piô kể cho các bạn nghe câu chuyện những ngày đầu
cha nhận năm dấu thánh. Đó là năm 1922 hoặc 1923.
Một thợ chụp hình muốn khai thác sự kiện này, ông chụp vài tấm hình
Cha Piô. Trên thực tế, nó không thành công cho mấy nhưng ông cũng in
ra, ông giao cho một chú bé và nói nó đi bán hai mươi xu một tấm.
Chú bé không khôn ngoan, lảng vảng ở khu vực gần tu viện, em thấy
cha nghiêng người qua cửa sổ, vẻ mặt dễ sợ hét to: “Thằng bé kia! Ta
sẽ trừng trị con, con đã bán ta vì hai mươi xu!” Đứa bé sợ quá bỏ
chạy.
Cha Piô quay lại với các bạn và nói: “Dù vậy, ít nhất người ta có
thể bán tôi đắt hơn!”
“Đi nói
với giáo sư Lunedei…”
Một diễn viên nổi tiếng kể một trong những người bạn của anh được
một giáo sư bác sĩ rất giỏi ở Florence săn sóc, người bạn kể với bác
sĩ là ông muốn đến San Giovanni Rotondo để gặp Cha Piô. Vị giáo sư
than trời: “Sao! Bạn đi gặp ông cuồng loạn đó sao? Về mặt khoa học,
đó là người cuồng loạn! Cứ nghĩ đến Chúa Giêsu bị đóng đinh thì dấu
thánh sẽ đến!”
Các lời nói này không làm lung lay ông, ông lên đường. Khi gặp Cha
Piô và xưng tội xong, ông kể cho Cha Piô nghe lời ông bác sĩ nói.
Cha trả lời: “Khi con về gặp giáo sư bác sĩ, con nói ông nên nghĩ
nhiều về con bò để xem mình có mọc sừng không!”
Tổng
thống nước Cộng hòa đến thăm…
Một ngày nọ, Tổng thống nước Cộng hòa Antonio Segni đến thăm Cha
Piô. Ông giới thiệu phái đoàn đi cùng, trong đó có dân biểu Russo.
Khi Cha Piô nghe chữ “Russo” (Nga)
Cha Piô hỏi: “Trọng kính Đức Vua, vì sao Ngài chỉ mang đến một người
Nga đến? Xin Ngài mang nhiều người Nga đến cho tôi!”
“Với cái
đầu của con…”
Một trong các bà được cho là người làm “say đắm”, theo năm tháng bà
già đi, xấu đi và chỉ còn là cái bóng của mình.
Bà bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện phù du của cuộc đời và cảm thấy
cần bám vào các giá trị vững bền. Bà quyết định đi xưng tội với Cha
Piô.
Nhưng để đến gần cha, bà phải ghi tên và chờ đến lượt mình. Bà không
nản lòng, ngược lại là đàng khác, để chắc ăn được gặp cha, bà ghi
tên hai lần. Bà kiên nhẫn chờ và khi đến lượt mình, bà đi xưng tội.
Ngày hôm sau đến lần thứ nhì, nhưng khi cha thấy bà, cha nói: “Con
mới xưng tội hôm qua, con cần gì ở cha nữa?”
– Nhưng từ hôm qua đến nay, con có thể có thêm tội!
– Đi đi! Với cái đầu của con, không phải dễ phạm tội như con nghĩ
đâu!”
Một sự
tiếp đón trớ trêu
Một ngày nọ có hai nghệ sĩ đến thăm Cha Piô. Khi cha thấy họ ở hành
lang, cha kêu lên: “Nhìn kìa các vẻ mặt này!”
Sau đó, người tháp tùng giới thiệu họ với cha: “Thưa cha, các nghệ
sĩ này bây giờ quyết định không làm việc với cái chân của họ nữa, họ
bắt đầu làm việc với cái đầu”, Cha Piô cắt gọn: “Thì họ cứ làm! Quan
trọng là họ sửa sai”.
Rồi khi từ giã họ, cha nói: “Quý vị tiếp tục hạ mình nhé! Tóm lại,
quý vị chưa bao giờ được vinh dự! Quý vị thay đổi ngay, nếu không
tôi đuổi quý vị!”
“Nào, đã
đến lúc!”
Linh mục Costantino Capobianco kể, với thời gian cha không còn nghe
gì và cha rất khổ vì bị như vậy. Để giúp cha, cha Bề trên mua cho
cha máy trợ thính, cha nghe được hơn.
Một ngày nọ, trong một buổi trò chuyện, Cha Piô hỏi xem nếu không có
máy trợ thính cha Costantino có nghe được không. Cha trả lời mình sẽ
không nghe được gì. Cha Piô xin cha rút máy ra một lúc, và khi cha
Costantino rút máy ra, Cha Piô nói với các bạn: “Nào, bây giờ mình
có thể nói xấu cha Costantino!”
“Vậy thì
lỗi ở ai?!”
Cha Carmelo da Sessano là cha Bề trên tu viện khi cha nhận lệnh của
Rôma, cho phép một nhóm nhân viên đài truyền hình đến quay phim một
vài sinh hoạt hàng ngày của Cha Piô. Cha Piô phải chịu vì cha Bề
trên xin Cha Piô để cho họ làm. Cha nghĩ là họ sẽ không quay lâu.
Khi cha rời phòng để xuống nhà nguyện dâng thánh lễ thì cha thấy
nhóm quay phim đang chuẩn bị quay. Rồi cha đến dâng lễ ở bàn thờ
Thánh Phanxicô nơi cha dâng lễ thời đó. Nhưng khi nghe tiếng máy
quay phim kêu rè rè thì cha bực mình, quay phắt lại và kêu lên:
“Hoặc là quý vị ngừng, hoặc là tôi ngừng! Tôi đi và tôi không làm
lễ!”
Và thế là họ phải ngưng quay phim như dự trù, nhưng sau đó họ cũng
quay lại, lúc được lúc không các sinh hoạt trong ngày của Cha Piô,
ngài thì cố gắng không để ý nhiều chừng nào hay chừng đó và cũng
giảm quay phim nhiều nhất có thể. Khi quay xong, cha Bề trên cho Cha
Piô biết, tất cả nhân viên quay phim muốn cám ơn cha và muốn được
cha ban phép lành. Cha Piô chấp nhận và tiếp nhóm quay phim, họ xin
lỗi đã làm phiền cha; rồi họ cũng nói không phải lỗi của họ, họ chỉ
tuân hành lệnh của cấp trên.
Khi đó Cha Piô cha phản hồi với giọng yếu ớt: “Quý vị nhận lệnh và
đó không phải là lỗi của quý vị. Cha bề trên tu viện nhận lệnh và đó
không phải lỗi của cha. Các cha bề trên Tỉnh Dòng nhận lệnh và đó
không phải lỗi của họ. Vậy thì… lỗi của ai?…”
“Cha phải
ban phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?”
Cô Grazia, một nông dân 29 tuổi bị mù từ bẩm sinh, cô thường hay đi
lễ ở ngôi nhà thờ nhỏ của tu viện San Giovanni Rotondo. Một ngày nọ
Cha Piô hỏi cô Grazia cô có muốn thấy không. Cô trả lời rất muốn,
miễn là ơn này không làm cho cô phạm tội. Cha nói cô sẽ lành và cha
gởi cô đến bác sĩ Durante, một bác sĩ giải pháp rất giỏi ở Bari.
Khi khám cho cô, bác sĩ nói giải phẫu cũng sẽ không làm cho cô
thấy.. Ông khuyên cô nên xin Cha Piô làm phép lạ… Nhưng vợ của ông
bác sĩ có mặt ở đó, bà nói nếu Cha Piô gởi bệnh nhân này đến là dấu
hiệu bác sĩ có thể làm một cái gì. Vì sao mình không thử? Được
thuyết phục, ông bác sĩ mổ cho bệnh nhân.
Ông mổ một con mắt… và cô Grazia thấy được với con mắt này. Ông mổ
con mắt thứ nhì và Grazia thấy cả hai mắt. Ông bàng hoàng và không
thể tìm được một lời giải thích nào đứng vững! Khi về lại San
Giovanni Rotondo, cô Grazia chạy như bay đến cám ơn Cha Piô. Cô quỳ
gối xuống trước mặt cha, người lần đầu tiên cô thấy, cô nói cho cha
biết niềm vui, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn của mình. Cha Piô đứng
bất động nhìn cô, im lặng và mỉm cười. Cô Grazia xin cha ban phép
lành, cha làm dấu thánh giá trên trán cô. Nhưng cô Grazia cứ nài nỉ:
“Xin cha ban phép lành cho con, xin cha ban phép lành cho con!”
Rốt cùng Cha Piô phải kêu lên: “Cha phải ban phép lành như thế nào
đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?!”
Marta An Nguyễn dịch
Ngày 16/11/2021, giữa đại dịch toàn cầu vẫn còn hoành hành, trong chuyến
Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 12 ngày 8-19/11/2021,
phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) đã đến San Giovanni
Rotondo để kính viếng Cha Thánh Piô Năm Dấu
vào một buổi sáng mưa duy nhất trong suốt thời gian hành hương, và
đã chụp được một số hình ảnh sau đây:
Một ngày kia, người con gái thiêng liêng của Cha Thánh Piô 5 dấu thưa
cùng ngài rằng: "Bởi thế mà Cha là tất cả mọi sự của mọi người" (Tu
dunque, sei tutto de tutti"), ngài liền trả lời rằng:
"Tôi không là tất cả của mọi người. "Mỗi
người trong các con có thể nói rằng: Cha Piô là của tôi"
(No,
sono tutto di ognuno. Ognuno
di voi può dire: “Padre Pio è mio!“). Câu
tiếng Ý trước bệ chân tượng của ngài là như thế.
Bàn thờ này đã từng là nơi cử hành Thánh lễ rất sốt sắng của Cha Thánh
Piô 5 Dấu
Tòa giải tội đã từng được Cha Thánh Piô 5 Dấu bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày
để cho LTXC có thể gặp gỡ và băng bó nhiều bao nhiêu có thể các tâm hồn
"tan nát khiêm cung" của tội nhân tìm về với LTXC.
Biết bao nhiêu là thư tù linh hướng ngài viết. Có lẽ chỉ vì mất giờ đọc
từng bức thư này trong tiến trình điều tra phong thánh cho ngài mà đã
phải mất 15 năm (1982-1997) ngài mới được ĐTC GP II phong á thánh.
Chính số thư từ khổng lồ chưa từng thấy này tự chúng đã là một sự lạ cả
thể về vị thánh rồi, ở chỗ, cả ngày ngài giải tội và dâng lễ hằng giờ
đồng hồ, thì còn giờ đâu mà ngài đã viết vô vàn thư từ như thế chứ?!
Thân thể của
ngài trước đây được trưng bày trong ngôi mộ ở Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn này,
nhưng nay đã được dời về Đền Thánh Piô 5 Dấu, không còn ở ngay chỗ này
nữa.
Ngày nay có khoảng 7 triệu khách hành hương hằng năm đến hành hương, Nhà
Thờ Đức Mẹ Ban Ơn không thể nào đáp ứng nhu cầu hành hương của số lượng
người khổng lồ như thế,
mới xuất hiện Nhà Thờ Thánh Piô, nơi có thể chứa được 7 ngàn người ở bên
trong, chưa kể bên ngoài quảng trường dọc theo nhà thờ còn có thể chứa
được thêm cả ngàn người nữa.
Các đau khổ không lúc nào từ bỏ Cha Pio. Vào cuối năm 1966, Cha không
thể đứng để cử hành thanh lễ, bắt buộc phải ngồi trong suốt thánh lễ.
Cha cũng không thể đi từ phòng ở đến Tòa giải tội đặt trong nhà thờ. Ngày
20 tháng 9 năm 1968, kỷ niệm 50 năm lãnh nhận dấu thánh. Trong dịp
này, Ðại hội quốc tế các nhóm cầu nguyện được tổ chức; nhưng Cha Pio
không thể tham dự, vì ngài sắp qua đời. Lúc 2g30 ngày 23 tháng 9 năm
1968, Cha đã tắt thở. Lúc các Bác sĩ và các Tu sĩ mặc áo lễ cho Cha,
các vết thương biến mất hoàn toàn, không để lại dấu vết nào cả.