Thánh phần của phe vị thượng tế và bè Sađốc trong bài đọc một hôm nay là
những con người điển hình nhất "yêu tối tăm hơn ánh sáng", sợ ánh
sáng, không dám ra trước ánh sáng, không dám chấp nhận sự thật, trái
lại, càng muồn dập tắt ánh sáng, chôn vuì sự thật, một thực tại thần
linh bất diệt không ai có thể chống lại được.
Thứ Năm sau
Chúa Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các
lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các
tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các
ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế
mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các
ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và
các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại,
Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng
quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel
được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời
đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời
Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33,
2 và 9. 17-18. 19-20
Ðáp: Kìa người
đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong
mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và
hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương
tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác,
để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa
nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn
trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức
gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.
Alleluia: Ga
16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự
thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3,
31-36
"Ðức Chúa Cha thương mến Con
Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng
về Chúa Giêsu rằng: "Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi
người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất.
Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và
nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai
chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là
Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa,
vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban
mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai
không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống"
của ngày Thứ Năm trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời chứng
của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về thế giá khả tín của Chúa
Giêsu liên
quan đến 2 vấn đề then chốt Người đã mạc khải cho nghị
viên Nicôđêmô
biết,
bao gồm
cả vấn đề "những
sự dưới đất"
là việc tái sinh
thần linh, lẫn vấn đề "những
sự trên trời"
là tình yêu
của Thiên Chúa muốn cứu độ con người nơi Con của Ngài, một Người Con
mà các tông đồ đã được rửa trong Thánh Thần, trong bài đọc
1 hôm nay, tỏ
ra hiên ngang rao giảng và làm chứng, bất chấp lệnh cấm đoán của
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái vẫn tiếp tục cố tình muốn bóp nghẹt sự thật,
muốn tránh né trách nhiệm về hậu quả họ đã gây ra cho Người Con
của Thiên Chúa.
"Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước
công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: 'Ta đã ra lệnh cấm các ngươi
nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các
ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ
trên chúng tôi ư?' Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: 'Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã
cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập
giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu
Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi
là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban
cho mọi kẻ vâng lời Người?' Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và
tìm mưu giết các ngài".
Nếu "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống
đời đời và sự sống này ở nơi Con của Ngài" (1Gioan 5:11), mà chỉ có
ai tin vào Chúa Kitô mới được sự sống mà thôi (xem Gioan 3:16). Mà sự
sống đây được Chúa Kitô ban phát cho dân của Người bấy giờ như của ăn
mang lại sự sống đời đời (xem Gioan 6:27) là chính bản thân Người nói
chung, là mạc khải thần linh của Người, qua lời Người nói và việc Người
làm.
Đó là lý do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc
Âm hôm nay đã làm chứng về bản thân đầy thế giá và đáng tin của Chúa
Kitô:
"Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: 'Ðấng từ trên
cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về
đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết
mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó.
Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của
Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa
sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn
lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con
thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy
sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy'".
Vị Tiền Hô này còn khẳng định
những lời Người nói hay việc Người làm (chứng) đều mang lại sự sống cho
những ai tin tưởng vào Người: "Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì
quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật.... Ai tin vào Con thì có sự sống
đời đời". Và chính vì "lời chứng của Người không ai chấp nhận",
vì "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt" (Bài Phúc Âm Thứ Hai
Tuần II Phục Sinh) và "Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói
những sự thuộc về đất" (Phúc Âm hôm nay), mới cần đến "Ðấng từ
trời mà đến thì vượt trên hết mọi người" để tỏ cho họ biết, nhờ đó
họ có thể được "tái sinh bởi trời" (Phúc Âm Thứ Hai Tuần II
Phục Sinh), như một "con người sinh bởi Thần Linh" (Bài Phúc Âm
Thứ Ba Tuần II Phục Sinh).
Ngày 11/4: Thánh Stanislao (St. Stanislaus), giám mục tử đạo
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Stanislaô
sinh năm 1030, gần thành phố Cracow, nước Ba Lan. Để sinh hạ
Stanislaô, song thân ngài đã phải liên lỉ cầu nguyện suốt ba mươi
năm trời. Lúc Stanislaô chào đời, song thân đã khấn dâng ngài cho
Thiên Chúa vì họ rất biết ơn có được mụn con. Khi lớn lên, Stanislaô
sang học ở Paris, nước Pháp. Sau khi song thân qua đời, Stanislaô
đem cho người nghèo tất cả tiền bạc và của cải mà song thân để lại
cho ngài. Sau đó, Stanislaô làm linh mục.
Năm 1072,
Stanislaô được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Cracow. (Sau này,
trước khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II cũng là Giám
mục của Giáo phận Cracow này.) Giám mục Stanislaô chiếm được tình
cảm của mọi người. Họ hết sức cảm kích trước cách thức ngài quan tâm
chăm sóc những người nghèo, những quả phụ và các trẻ mồ côi. Chính
Stanislaô thường hay tiếp đãi phục vụ họ.
Lúc ấy, Bôlêlô II
làm vua nước Ba Lan. Nhà vua là người rất độc ác và sống vô luân.
Dân chúng chán ghét lối sống của vua và ghê sợ nhà vua. Thoạt đầu,
Giám mục Stanislaô sửa lỗi cho nhà vua cách tư riêng. Tuy Stanislaô
rất tử tế và lịch duyệt, nhưng ngài cũng nhận định hết sức trung
thực về việc làm sai trái của nhà vua. Vua có vẻ hối hận nhưng chẳng
bao lâu lại chứng nào lại tật nấy. Thậm chí vua đã sai phạm những
tội còn quái ác hơn! Chính vì thế mà Giám mục đành phải loại vua ra
khỏi Giáo hội. Vua Bôlêlô liền nổi cơn thịnh nộ. Để trả thù, nhà vua
truyền lệnh cho hai trong số những cận vệ của mình đến giết hại
thánh Stanislaô. Họ đã cố gắng đến ba lần nhưng đều thất bại. Rồi
chính nhà vua, trong một cơn cuồng giận, đã chạy vào nguyện đường
của thánh Giám mục. Vua đã giết chết thánh Stanislaô khi ngài đang
dâng thánh lễ. Hôm đó là ngày 11 tháng Tư năm 1079.
Chưa đã thỏa lòng
giận dữ , ông còn chặt xác ngài thành ra thành nhiều khúc rồi vứt ra
ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ
có bốn cánh phượng hoàng bay lượn ngăn cản tất cả không cho bất cứ
con vật nào xâm phạm tới các thánh
Bấy giờ vua Bôlêlô
mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô
rất trọng thể. Xác thánh được liền lại như mới qua đời vì bệnh tật
và được chôn cất tại nhà thờ Chính tòa Krakow.
Thiên Chúa đã làm
nhiều phép lạ sau khi thánh Stanislaô qua đời. Mọi người đều gọi
Stanislaô là vị thánh tử đạo. Năm 1253, Đức Thánh Cha Innôcentê IV
đã tôn Stanislaô lên bậc hiển thánh.
II. BÀI HỌC.
Bài học chúng ta
có thể học nơi thánh Stanislaô là lòng can đảm khi phải đương đầu
với những khó khăn theo sứ mạng của mình.
Nếu thánh Gioan Tẩy Giả ngày xưa đã vì sứ mạng mà dám công khai lên
án việc làm sai trái của vua Hêrôđê để rồi phải nhận lấy cái chết
đau khổ trong ngục tù thì thánh Stanislaô chúng ta mừng kính hôm nay
cũng vậy. Vì là Giám Mục nên ngài có bổn phận phải bảo vệ và gìn giữ
sự trong sáng và thánh thiện của Giáo hội. Chính vì thế mà ngài
không thể làm ngơ trước những việc làm tồi tệ của vua Bôlêlô lúc đó.
Mặc dù ngài biết hậu quả của việc ngài phải làm sẽ như thế nào. Lịch
sử còn ghi lại: Giám mục Stanislaô đã phải nhận lấy cái chết còn đau
khổ hơn nhiều, Thế nhưng đó là cái chết vì bổn phận, vì sứ mạng tông
đồ của Chúa Giêsu đúng như lời Chúa đã nói tiên tri thuở trước.”Bấy
giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người
ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy”
(Mt 24, 9).
Quả thực thánh
Stanislaô đã đạt tới vinh quang bằng con đường mà ai trong chúng ta
cũng có thể noi theo. Đó là con đường nên thánh bằng cách chu toàn
bổn phận Chúa trao phó. Mỗi người chúng ta sinh ra vào đời đều được
Chúa trao cho một sứ mệnh phải hoàn thành. Hoàn thành được sứ mạng
Chúa trao tức là chúng ta đã làm trọn thánh ý Chúa. Và đó chính là
con đường nên thánh hoàn hảo nhật.
Làm bất cứ bổn
phận nào cũng có thể nên thánh
*Tác giá ĐHV
nói:”Việc nhỏ, lòng nhỏ; việc lớn; lòng lớn; việc lớn, lòng nhỏ;
việc nhỏ, lòng lớn. Con hãy thực hành cách sau hết: Trung tín trong
việc lớn; để trung tín trong việc nhỏ, khó. Chúa khen kẻ thực hành
cách sau này. (ĐHV 807)
* Không có công
việc nào hèn hạ chỉ có tâm hồn hèn hạ. (ĐHV 811)
Thánh Bonaventura
(1221-1274) trước khi làm Hồng Y coi sóc Giáo phận, đã làm Bề Trên
Cả điều khiển Dòng Phanxicô. Ngài có tiếng là rất thông minh xuất
chúng, viết nên nhiều tác phẩm lừng danh, trong đó có cuốn
(Commentaire sur les quatres livres des sentences) và nhiều tác phẩm
thần học rất có giá trị.
Một hôm, thầy nấu
bếp xin gặp ngài với nét mặt thật thê lương ảm đạm, thầy trình bày:
- Thưa cha, mấy
lâu nay con buồn quá nhưng vẫn cứ ấp ủ mãi trong lòng. Đến hôm nay,
con mới bạo dạn xin phép gặp cha để nhờ cha giải quyết nỗi lo âu cho
con.
- Cha sẵn sàng
giúp con, con cứ tự nhiên trình bày mọi chuyện.
- Thưa cha, con
trộm nghĩ: thông thái thời danh như cha thì thật là hạnh phúc. Vì
nhờ đó cha có thể yêu mến Chúa, phụng sự Chúa, và sau lên thiên đàng
dễ dàng hơn, ngồi gần Chúa hơn! ... Nghĩ lại phận con là một tên đầu
bếp rất hèn, con cảm thấy quá buồn tủi! Không biết rồi đây có được
lên thiên đàng không, thấy được sự vinh hiển Chúa không, có gần gũi
Chúa như cha được không!
- Ồ, con đừng nghĩ
thế! Chúa chẳng bao giờ đòi hỏi sự thông thái thời danh cả. Chúa chỉ
sợ con không mến Chúa trong các công việc bổn phận tầm thường hằng
ngày của con thôi?
- Vậy dốt như con
cũng có thể yêu mến Chúa như cha Bề Trên Cả sao?
- Đúng thế!
- Mấy bà ngoại chợ
cũng thế à?
- Dĩ nhiên rồi!
Miễn là mấy bà dâng cho Chúa mọi công việc!
Nghe đến đây thầy
đầu bếp chẳng còn đè nén được niềm phấn khởi. Không kịp chào Bề Trên
Cả, thầy vội chạy ra khỏi phòng, leo lên thành, nhảy xuống đường,
chạy đến phố chợ và la lên: “Anh chị em ơi! Các bà bán hàng ngoài
chợ ơi! Tôi báo cho anh chị em một tin rất vui mừng, anh chị em có
thể nên thánh bằng cha Bề Trên Cả của chúng tôi được”.
Thầy vừa chạy vừa
la lớn tiếng như điên, quanh cả phố chợ. Người ta thật khó mà nhận
ra thầy vì thầy chạy quá nhanh, nhưng giọng nói của thầy thì ai cũng
nghe: “Cứ làm bổn phận tầm thường vì mến Chúa thì sẽ nên thánh cả.
Chính cha Bonaventura mới cho tôi biết! mừng quá? Vui quá!’
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-11-04-thanh-sta-nit-la-o-giam-muctu-dao-1030-1079-40240
Thánh Stanislaô được kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở
Balan, nơi ngài làm Giám mục và hài cốt ngài được lưu giữ ở nhà thờ
chính tòa. Không có tường thuật đương thời nào về ngài được coi là
đầy đủ và các chi tiết về đời ngài cũng không rõ rệt lắm. Người ta
kể rằng : cha mẹ ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn
về đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng
07 năm 1030, họ sinh được một người con trai và đặt tên là
Stanislaô. Họ chú tâm đào luyện con mình theo những tập quán đạo
hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ đã tỏ ra có tinh thần bác ái và nhiệt
hành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ
Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm tông đồ Chúa. Trước
hết ngài đã theo học Đại học tại triết học tại Đại học Gniezno. Sau
đó ngài sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorrain trong
bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, ngài phải trở về Balan.
Được thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại,
nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân phụng sự Chúa vì vậy ngài đã
đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp tục theo đưổi lý
tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho
Stanislaô, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa
phận.
Giữ chức vụ kinh sĩ, Stanislaô đã trở nên
lừng danh về tài thuyết giảng và về chính đời sống gương mẫu thánh
thiện của ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu
Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu nhận.
Nhưng năm 1072, vâng lời Đức Thánh Cha Alexandre II, Stanislaô đã
nhận làm Giám mục Krakow.
Đức cha Stanislaô là một Giám mục thánh
thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai đau khổ và nghèo đói. Tuy
nhiên, ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua Balan lúc ấy
là Bôleslas II. Ông ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh
quang nhưng lại chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp.
Hành vi độc ác của ông đã khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác".
Cả nước đều phải run sợ nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có
một người, một vị thánh là Stanislaô đã dám đương đâu với sự giận dữ
của nhà vua.
Sau khi cầu nguyện với tất cả tâm hồn,
thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng đầy cương quyết, thánh
nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói, ngài trình
bày cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong
vương quốc mà nhà vua gây nên, ngài cũng nói cho nhà vua rõ những
phán xét Thiên Chúa đang chờ đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối
hận. Nhưng thật đáng tiếc vì đây chỉ là một tình cảm chóng qua,
Bôleslas lại trở nên man rợ như trước và còn thêm một tội ghen ghét
vào những ác độc của ông.
Sau này, vua đã cướp vợ của một nhà quí
phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan ra khắp tỉnh nhưng dân
chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một lần nữa can
đảm đến gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm chân
chính. Ngài đe dọa, nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run
lên vì tức giận, nhà vua tìm kế sát hại thánh nhân.
Bôleslas biết Đức Cha có mua một thuở đất
để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trước mặt nhiều chứng nhân mà
không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các chứng
nhân để họ phản chứng rồi tố giác Đức Giám mục ra tòa. Mưu độc của
ông bị thất bại. Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền
đào mồ người chết và kêu ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu vậy, Bôleslas vẫn không thay lòng đổi
dạ đối với vị Giám mục gan dạ Stanislaô. Ngày 08 tháng 5 năm 1079,
khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường thánh Micae.
Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt
đến mà không hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải
ra tay. Ông xông vào nhà thờ chém giết vị Giám mục tại bàn thờ. Chưa
đã thoả lòng giận dữ , ông còn chặt xác ngài thành ra làm nhiều khúc
rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau,
trên trời chỉ có bốn cánh phượng hoàng bay lượn ngăn cản tất cả
không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi.
Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô rất trọng thể. Xác thánh
liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được chôn cất tại nhà thờ
Chính tòa Krakow.
Bất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải biết đến tên Stanislao, vị Giám
mục thánh thiện nhưng bi thương của Giáo phận Krakow. Cùng với các thánh
Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết
liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Stanislaô được kính nhớ như vị thánh bảo trợ thành Krakow ở Ba
Lan, nơi ngài làm giám mục và hài cốt ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính
tòa. Không có tường thuật đương thời nào về ngài được coi là đầy đủ và
các chi tiết về đời ngài cũng không rõ rệt lắm. Người ta kể rằng: Cha mẹ
ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn về đàng con cái. Sau
nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng 07 năm 1030, họ sinh được
một người con trai và đặt tên là Stanislao. Họ chú tâm đào luyện con
mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislao, từ nhỏ đã tỏ ra có
tinh thần bác ái và nhiệt thành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ Stanislao đã nghe rõ tiếng Chúa
kêu gọi đi làm Tông đồ Chúa. Trước hết Ngài đã theo học triết học
tại Đại học Gniezno. Sau đó Ngài sang Paris theo học Luật và Thần học ở
tu viện Lorranin trong bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, Ngài phải trở
về Ba Lan.
Được thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí
hiến thân phụng sự Chúa vì vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người
nghèo khó rồi tiếp tục theo đuổi lý tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert
đã phong chức linh mục cho Stanislao, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại
nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ chức vụ Kinh sĩ, Stanislao đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng
và về chính đời sống gương mẫu thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert,
toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu Stanislao lên kế vị. Vì khiêm tốn,
thánh nhân quyết không chịu nhận. Nhưng năm 1072, vâng lời Đức Thánh Cha
Alexandre II, Stanislao đã nhận làm Giám mục Krakow.
Đức cha Stanislao là một Giám mục thánh thiện và nhân hậu, nhất là đối
với những ai đau khổ và nghèo đói. Những việc hoàn thành lớn lao của Đức
Giám mục Stanislao bao gồm việc đem các vị Khâm sứ Tòa thánh tới Ba Lan,
việc tái lập tòa Tổng Giám mục tại Gniezno. Việc tái lập này được thực
hiện theo một thỏa ước là việc đội vương niệm cho quận vương Boleslaus
lên ngôi vua Ba Lan, và được thực hiện vào năm 1076. Đức Giám mục
Stanislao khích lệ vua Boleslaus thiết lập các đan viện Biển Đức để giúp
phát triển việc Kitô giáo hóa nước Ba Lan.
Cuộc đối đầu với vua Boleslaus khởi sự với chuyện tranh dành đất đai.
Đức Giám mục Stanislao có mua cho địa phận một mảnh đất bên bờ sông
Vistula gần Lublin từ một người có tên là Phêrô (Piotr), nhưng
khi ông này chết, thì con cái đòi lại mảnh đất đó. Nhà vua đã phán quyết
cho gia đình của ông Phêrô này thắng kiện. Nhưng thánh Stanislau đã xin
một thời gian ba ngày để ngài kháng án. Ngài đã cầu nguyện, và tới ngày
thứ ba, thì cho ông Phêrô kia được sống lại để làm chứng cho việc mua
đất là sự thật, và nhà vua đã bãi bỏ vụ kháng cáo chống lại tòa Giám mục
đó.
Trong cuộc viễn chinh chống với đại đế Duchy của Kiev (nước Ucraina),
Ðức Stanislao bị dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là
người thẳng thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người
dân, nhất là các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của
vua Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.
Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó
lại trở về con đường cũ. Ðức Stanislao tiếp tục công khai chống đối bất
kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ
tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh lễ mỗi khi có sự hiện diện
của ông. Ðiên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị Giám
mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Ðức
Stanislao trong khi ngài cử hành Thánh lễ trong một nhà thờ ở ngoại ô
thành phố. Sau đó thân thể của ngài bị chặt ra thành từng mảng và ném
xuống ao ở phía ngoài nhà thờ. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn
cánh phượng hoàng bay lượn ngăn cản tất cả không cho bất cứ con vật nào
xâm phạm tới xác Thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng
thánh Stanislao rất trọng thể. Xác Thánh liền lại như mới qua đời vì
bệnh tật và được chôn cất tại nhà thờ Chánh tòa Krakow.
Cuộc giết thánh Stanislao đã khuấy động lên sự phẫn nộ của dân chúng
khắp đất Ba Lan và dẫn tới việc vua Boleslaus phải thoái vị khỏi ngai
vàng, và đi sang nương náu tại nước Hung Gia Lợi, để cho em vua là
Wadyslaw kế vị ông.
Ðức Stanislao là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Ðức
Giáo Hoàng Innôcentê IV phong Thánh năm 1253 và được đặt làm Quan thầy
chính thức của Krakow.
Lời bàn
Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislao là một vài ngôn
sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các ngài đã theo
chân Ðức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của các nhà lãnh
đạo tôn giáo thời ấy. Ðó là một công việc đầy nguy hiểm đòi hỏi sự can
đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-11-thang-4-thanh-stanislao-giam-muc/
Thánh Phaolô đã viết cho Timôtêô như thế này: ”Nếu ta cùng chết với Đức
Kitô, Ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng
hiển trị với Người”
( 2Tm 2, 11-12 ). Thánh Stanislao đã kiên quyết cảnh cáo và khuyến dụ
những con người phản nghịch, tội lỗi. Ngài đã xứng lãnh nhận triều thiên
công chính.
THÁNH
STANISLAO, NGƯỜI LÀ AI ?
Thánh Stanislao sinh tại miền Cracovie nước Balan ngày 26 tháng 7
năm 1030 trong một gia đình giầu sang, phú quí. Thánh nhân là con
trai duy nhất trong gia đình quyền quí, giầu sang, nhưng Ngài không
ham mê của cải, không màng danh vọng, chức quyền, ngay từ nhỏ, từ
lúc thiếu thời, Ngài đã tỏ ra là người đầy là nhân ái và giầu lòng
thương xót. Ngay từ lúc còn nhỏ, Ngài đã nhận ra tiếng Chúa gọi mời,
Ngài bỏ mọi sự và đi theo tiếng mời gọi của Chúa, thánh nhân học
triết và thần học, rồi lãnh nhận sứ vụ linh mục. Thánh nhân được cất
nhắc lên bậc kinh sĩ, vị linh mục mới đã nổi tiếng về đời sống thánh
thiện, tài đức, được nhiều người khen ngợi và biết tiếng. Thánh nhân
dù rất nổi tiếng, nhưng lúc nào Ngài cũng khiêm nhượng, âm thầm và
sống nhiệt thành với sứ vụ, với công việc được trao phó và sống hết
sức bác ái với mọi người. Thánh nhân luôn nghiên cứu Thánh Kinh,
tham khảo các giáo phụ và thần học. Vì sự khiêm nhượng và tài lãnh
đạo, lòng nhân ái của Ngài, khi Đức giám mục giáo phận qua đời, Ngài
đã được đề cử lên lãnh trách nhiệm giám mục cai quản địa phận vào
năm 1072. Thánh nhân sống đời sống thánh thiện, đạo đức, Ngài ăn
chay, đánh tội, bố thí hàng ngày và đi thăm những người đau ốm.
Thánh nhân rất hiền lành, nhưng lại rất cương quyết chống lại,
khuyến cáo và răn đe những người tội lỗi. Thánh nhân can đảm, mạnh
dạn lên tiếng phản đối và tố cáo bạo vương Boleslas. Bị động tới
lòng tự ái và nhỏ nhen, ích kỷ, bạo vương Boleslas đã xông tới bàn
thờ chém đầu thánh nhân lúc thánh nhân đang cử hành thánh lễ. Bạo
vương ra lệnh phân thây xác Ngài và truyền ném xác cho muông thú ăn
thịt, nhưng không một con thú nào dám động đến xác thánh của Ngài.
Trước việc kỳ diệu, lạ lùng ấy, bạo vương đã thống hối ăn năn, trở
về và ngày tang lễ của thánh nhân trở thành ngày vui mừng, hân hoan.
GIÁO HỘI TUYÊN DƯƠNG THÁNH NHÂN
Vì lòng bác ái, những nhân đức siêu vời và những gương sáng thánh
nhân để lại, nhất là việc lạ lùng Chúa làm nơi thân xác thánh nhân.
Đức Thánh Cha Innocentê IV vào ngày 17 tháng 9 năm 1253 đã phong
hiển thánh cho Ngài.
Lạy Chúa, để làm vinh danh Chúa, thánh giám mục Stanislao đã ngã gục
dưới lưỡi gươm những kẻ bách hại mình. Xin cho chúng con cũng được
một niềm tin vững mạnh, giúp chúng con trung thành với Chúa suốt
cuộc đời chúng con (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Stanislao).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://giaophanthaibinh.org/a7420/Ngay-11-4-Thanh-Stanislao-St-Stanislaus-giam-muc-tu-dao.aspx
https://dcvxuanloc.net/thanh-stanislao-giam-muc-tu-dao-ngay-114/
Thánh Stanislaô - Giám mục tử đạo
(Lễ nhớ ngày 11.4)
Thánh Stanislaô (Stanislaus) sinh ra tại Sezepanow, Ba Lan, vào ngày
26.7.1030 trong một gia đình giàu sang, phú quý, nhưng ngài không
ham mê của cải, không màng danh vọng, chức quyền. Ngay từ lúc thiếu
thời, ngài đã tỏ ra là người đầy nhân ái và giàu lòng thương xót.
Sau khi cha mẹ qua đời, ngài phân chia tài sản của mình cho người
nghèo, rồi đi theo tiếng mời gọi của Chúa. Thánh nhân học Triết và
Thần học. Năm 1062, ngài được Đức cha Lampert, Giám mục giáo phận
Krakow phong chức linh mục và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa
địa phận. Năm 1072, ngài lên kế vị Giám mục cai quản giáo phận
Krakow. Trong vai trò giám mục, ngài tiến hành viếng thăm mục vụ các
họ đạo mỗi năm, đổi mới tinh thần giáo sĩ và giáo dân. Đức Giám mục
Stanislaô chiếm được tình cảm của mọi người. Họ hết sức cảm kích
cách thức ngài quan tâm chăm sóc những người nghèo, những quả phụ và
các trẻ mồ côi.
|
Thời đó, nước Ba Lan đang dưới quyền cai trị của vua Bôleslas II.
Ông này đã bắt cóc một phụ nữ đã có chồng để thỏa mãn dục vọng. Đức
Stanislaô đã mạnh dạn tố cáo tội dâm ô đó. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ
và đe dọa ngài. Đức Giám mục Stanislaô không còn cách nào khác là
phải rút phép thông công. Để trả thù, vua truyền lệnh cho hai trong
số những cận vệ của mình đến giết hại Đức Giám mục Stanislaô. Họ đã
cố gắng đến ba lần nhưng đều thất bại. Rồi chính nhà vua, trong một
cơn cuồng giận, đã chạy vào nguyện đường của Đức Giám mục. Vua đã
giết chết Giám mục Stanislaô khi ngài đang dâng thánh lễ. Hôm đó là
ngày 11.4.1079. Hài cốt ngài được lưu giữ ở nhà thờ chánh tòa
Krakow.
Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ sau khi Đức Giám mục Stanislaô qua
đời. Mọi người đều gọi Stanislaô là vị Thánh Tử đạo. Ngày 17.9.1253,
Đức Thánh Cha Innôcentê IV đã tôn phong Stanislaô lên bậc Hiển
thánh. Ngài rất được tôn kính ở Ba Lan.
http://www.cgvdt.vn/lich/thanh-stanislao-giam-muc-tu-dao_a4827
Bất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải
biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện nhưng bi thương của
giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài
thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một
chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần
Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba
Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm
tổng phó tế và người thuyết giáo của Ðức Giám Mục Krakow, là nơi tài
hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời
sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ. Ngài trở thành giám mục của Krakow
năm 1072.
Trong cuộc viễn chinh chống với Ðại Ðế Duchy của Kiev, Ðức Stanislaus bị
dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là người thẳng
thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân, nhất là
các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của Vua
Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.
Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó
lại trở về con đường cũ. Ðức Stanislaus tiếp tục công khai chống đối bất
kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ
tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh Lễ mỗi khi có sự hiện diện
của ông. Ðiên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị giám
mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Ðức
Stanislaus trong khi ngài cử hành Thánh Lễ trong một nhà nguyện ở ngoại
ô thành phố.
Ðức Stanislaus là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Ðức
Giáo Hoàng Innôcentê IV phong thánh năm 1253 và được đặt làm quan thầy
chính thức của Krakow.
Lời Bàn: Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislaus là
một vài ngôn sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các
ngài đã theo chân Ðức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của
các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy. Ðó là một công việc đầy nguy hiểm đòi
hỏi sự can đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.
Lời Trích: "Những người khao khát muốn có quyền bính để có thể áp đặt
luật lệ, mệnh lệnh và kiểm soát người khác, thì chính họ là những người
sống vô kỷ luật và không kiềm chế" (Thánh Tôma More, Một Ðối Thoại Về Sự
Tiện Nghi).
Nguồn: Báo Người Tín Hữu
https://www.longthuongxotchua.org/index.php/tai-lieu/blog/ngay-11-04-thanh-stanislaus-1030-1079
https://sites.google.com/site/guongcacthanh/guong-cac-thanh/thang-4/gt_04-11
Thứ Sáu sau
Chúa Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
5, 34-42
"Các ngài hân hoan ra về, vì
thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Ðức Giêsu".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ, có người biệt phái tên là
Gamaliel, cũng là luật sĩ, có thế giá trong dân, đứng lên giữa công
nghị, truyền dẫn các tông đồ ra ngoài trong giây lát, rồi nói với các
người trong công nghị rằng: "Hỡi chư vị Israel, xin hãy thận trọng về
việc chư vị định làm đối với những người này. Vì trước đây ít ngày, có
tên Thêôđa nổi lên, tự xưng là một nhân vật, có độ bốn trăm người theo
mình, y đã bị giết, và nhóm người theo y đều tan rã và không còn gì nữa.
Sau y, lại có tên Giuđa người Galilêa, cũng nổi lên trong những ngày
kiểm tra dân số, lôi kéo dân chúng theo mình, rồi chính hắn cũng chết,
mọi kẻ theo hắn đều tan rã. Và bây giờ, tôi xin chư vị đừng can dự gì
đến những người này, cứ để mặc họ: vì nếu một mưu toan hay việc này là
do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị
không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang tội chống đối Thiên Chúa". Họ
đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra lệnh đánh đòn các ngài, và cấm
tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các
ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình
xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và hằng ngày, tại đền thờ hay
tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Ðức
Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26,
1. 4. 13-14
Ðáp: Có một
điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong
nhà Chúa suốt đời tôi (c. 4ab).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng
cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? -
Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một
điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi,
hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. -
Ðáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn
xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy
sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3,
1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em
sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy kiếm những sự cao siêu
trên trời, nơi Ðức Kitô, đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6,
1-15
"Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia
biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì
họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên
núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái
đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến
với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người
này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc
Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi
người được một chút".
Một trong những môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có
năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu
cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó
có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa
Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn,
và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no
nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi".
Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người
ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm,
người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng Tiên tri phải đến trong thế
gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua,
nên Người lại trốn lên núi một mình.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Sáu trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc
Chúa Giêsu làm phép lạ (lần đầu) hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông
dân chúng theo đuổi Người, nghe lời Người, một hành động Người làm với sự hợp tác
của các môn đệ, thành phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và
lên trời, đã chứng tỏ mình thực sự được tái sinh thần linh, như
trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, ở chỗ, các
vị càng vui mừng vì được chịu khổ vì Đấng Phục Sinh và cứ tiếp tục
tỏ ra bất khuất trong việc rao giảng và làm chứng cho những
gì các vị đã thấy và đã nghe nơi Người.
Phúc Âm (Gioan
6:1-15):
"Lễ
Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu
ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người.
Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này
ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc
Người sắp làm. Philipphê thưa: 'Hai trăm bạc bánh cũng không đủ
để mỗi người được một chút'. Một trong những môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: 'Ở đây có một bé
trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu
thì thấm vào đâu cho từng ấy người'. Chúa
Giêsu nói: 'Cứ bảo người ta ngồi xuống'. Nơi đó có nhiều cỏ,
người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu
cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi
ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: 'Hãy thu lấy những miếng
còn lại, kẻo phí đi'. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do
năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư."
Bài Đọc I (Tông Vụ 5:34-42):