Thứ Hai
Chủ đề "Thày là
sự sống" của ngày Thứ Hai trong Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh
"Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện hết sức minh nhiên trong chính bài Phúc Âm qua những lời Chúa
Giêsu nói về chính việc tái sinh bởi trời, bởi trên cao với ông
Nicôđêmô là một trong các viên chức thuộc Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thời
bấy giờ, mà điển
hình nhất trong
số thành phần tái sinh thần
linh được
bài đọc 1 hôm nay cho thấy đó là chính cộng đoàn
Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn bất khuất trước quyền
lực tối tăm đầy đe dọa chết chóc bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Đấng
Phục Sinh quyền năng, một cộng đoàn được Người ở cùng nhờ Thánh Thần ngự
xuống trên họ.
Phúc Âm (Gioan
3:1-8):
"Thật, Tôi bảo
thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không
ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết
nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên
vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi
đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi
đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Trong câu
Phúc Âm chính yếu trên đây, chúng ta thấy 4 điểm then chốt về sự kiện
tái sinh thần linh sau đây:
1) Tái
sinh thần linh: tác nhân - "bởi nước và Thánh Thần". Khi lãnh
nhận Phép Rửa, Kitô hữu dự tòng đã thật sự được rửa bởi nước cho sạch
nguyên tội (lẫn tư tội nếu là người lớn), và được xức dầu Thánh Linh.
Tuy nhiên, "nước và Thánh Thần" ở đây đều có thể hiểu về Thánh
Thần: "nước" ám chỉ Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thông
cho các tông đồ từ thân xác phục sinh của Người khi Người hiện ra với
các vị vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần (xem Gioan 20:22; Gioan
7:37-39); "Thánh Thần" đây là Đấng được Chúa Kitô Thăng Thiên
từ Cha sai đến (xem Gioan 15:26; Tông Vụ 1:8, 2:1-4). Như thế, "nước"
đây là Thánh Thần được ban cho Kitô hữu dự tòng khi họ lãnh nhận Bí Tích
Thánh Tẩy, và "Thánh Thần" đây là Đấng được ban cho Kitô hữu
trưởng thành nơi Bí Tích Thêm Sức để họ có thể làm chứng cho Chúa Kitô.
2) Tái
sinh thần linh: mục đích - "được
vào nước Thiên Chúa", nghĩa là được Ơn Cứu Độ, được hiệp nhất nên
một với Chúa Kitô, được hiệp thông thần linh với Ba Ngôi Chí Thánh là
Cha và Con và Thánh Thần.
3) Tái sinh thần linh: lý do - "sự
gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh,
thì là thần linh". Nghĩa là tự chất và khuynh hướng của mình, con
người chỉ sống theo bản tính tự nhiên trần tục của mình, chỉ hướng hạ và
sa ngã phạm tội mà thôi, nếu họ không được cứu độ, được giải thoát để có
thể "tôn thờ Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý"
(Gioan 4:24).
4) Tái
sinh thần linh: tác dụng - "Gió
muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu
đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy" (Bài Phúc Âm
ngày mai).
Bài Đọc I (Tông
Vụ 4:23-31):
"'Lạy
Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các tôi tớ Chúa
được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa giơ tay chữa
lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi thường nhân danh
Thánh Tử của Chúa là Ðức Giêsu'. Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ đang
tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin
tưởng rao giảng lời Thiên Chúa".
Phúc Âm (Gioan
3:16-21):
"Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con
của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa
không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế
gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị
luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh
Con Một Thiên Chúa".
Trong bài
phúc âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã nói riêng về lý do tại sao
con người không chấp nhận mạc khải thần linh, không tin vào Con Một
Thiên Chúa được ban cho họ để cứu độ họ:
"Đây
là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối
tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu
xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của
mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự
sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên
Chúa".
Ở câu
Phúc Âm trên đây, Chúa Giêsu đã
khẳng định rằng: "Người
đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy,
ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ
những việc làm của mình bị khiển trách".
Đúng
thế, thực tế cũng cho thấy rõ ràng
là "Người
đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa". Và
chính vì thế,
vì "hành động
của họ xấu xa" mà họ mới "ghét
sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển
trách".
Những
hành động cụ thể chứng tỏ con người yêu
tối tăm hơn ánh sáng, sợ ánh sáng và không dám ra trước ánh sáng như:
không chấp nhận tội lỗi của mình để khỏi phải sửa mình nhờ đó có thể
tiếp tục sống thoải mái theo bản tính tự nhiên, hay giải thích Lời Chúa
hay luật Chúa theo khuynh hướng dễ dãi của mình để khỏi phải bỏ mình
tuân giữ, hoặc sau khi cầu xin cho biết ý Chúa và biết được đâu là ý của
Ngài rồi thì chối bỏ, chạy trốn, không dám theo.
Thánh phần của phe vị thượng tế và bè Sađốc trong bài đọc một hôm nay là
những con người điển hình nhất "yêu tối tăm hơn ánh sáng", sợ ánh
sáng, không dám ra trước ánh sáng, không dám chấp nhận sự thật, trái
lại, càng muồn dập tắt ánh sáng, chôn vuì sự thật, một thực tại thần
linh bất diệt không ai có thể chống lại được.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 5:17-26):
"Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là
phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng
đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: 'Hãy đi
vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này'. Nghe
lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
"Lúc bấy giờ vị
thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả
các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra.
Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về
báo cáo rằng: 'Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh
vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai
ở bên trong cả'.
"Khi nghe các lời
đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không
biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo
tin cho họ rằng: 'Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang
đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ'. Bấy giờ viên lãnh binh cùng các
thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng
ném đá".
Thứ Năm
Chủ đề
"Thày là sự sống"
của ngày Thứ Năm trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời chứng
của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về thế giá khả tín của Chúa
Giêsu liên
quan đến 2 vấn đề then chốt Người đã mạc khải cho nghị
viên Nicôđêmô
biết,
bao gồm
cả vấn đề "những
sự dưới đất"
là việc tái sinh
thần linh, lẫn vấn đề "những
sự trên trời"
là tình yêu
của Thiên Chúa muốn cứu độ con người nơi Con của Ngài, một Người Con
mà các tông đồ đã được rửa trong Thánh Thần, trong bài đọc
1 hôm nay, tỏ
ra hiên ngang rao giảng và làm chứng, bất chấp lệnh cấm đoán của
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái vẫn tiếp tục cố tình muốn bót nghẹt sự thật,
muốn tránh né trách nhiệm về hậu quả họ đã gây ra cho Người Con
của Thiên Chúa.
Phúc Âm (Gioan
3:31-36):
"Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: 'Ðấng từ trên
cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về
đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết
mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó.
Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của
Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa
sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn
lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con
thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy
sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy'".
Bài Đọc I (Tông
Vụ 5:27-33):
"Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước
công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: 'Ta đã ra lệnh cấm các ngươi
nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các
ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ
trên chúng tôi ư?' Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: 'Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã
cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập
giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu
Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi
là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban
cho mọi kẻ vâng lời Người?' Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và
tìm mưu giết các ngài".
Nếu "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống
đời đời và sự sống này ở nơi Con của Ngài" (1Gioan 5:11), mà chỉ có
ai tin vào Chúa Kitô mới được sự sống mà thôi (xem Gioan 3:16). Mà sự
sống đây được Chúa Kitô ban phát cho dân của Người bấy giờ như của ăn
mang lại sự sống đời đời (xem Gioan 6:27) là chính bản thân Người nói
chung, là m,ạc khải thần linh của Người, qua lời Người nói và việc Người
làm.
Đó là lý do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc
Âm hôm nay đã làm chứng về bản thân đầy thế giá và đáng tin của Chúa
Kitô: "Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì
Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó."... "Ðấng được Thiên
Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh
khôn lường".
Vị Tiền Hô này còn khẳng định
những lời Người nói hay việc Người làm (chứng) đều mang lại sự sống cho
những ai tin tưởng vào Người: "Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì
quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật.... Ai tin vào Con thì có sự sống
đời đời". Và chính vì "lời chứng của Người không ai chấp nhận",
vì "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt" (Bài Phúc Âm Thứ Hai
Tuần II Phục Sinh) và "Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói
những sự thuộc về đất" (Phúc Âm hôm nay), mới cần đến "Ðấng từ
trời mà đến thì vượt trên hết mọi người" để tỏ cho họ biết, nhờ đó
họ có thể được "tái sinh bởi trời" (Phúc Âm Thứ Hai Tuần II
Phục Sinh), như một "con người sinh bởi Thần Linh" (Bài Phúc Âm
Thứ Ba Tuần II Phục Sinh).
Thứ Sáu
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Sáu trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc
Chúa Giêsu làm phép lạ (lần đầu) hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông
dân chúng theo đuổi Người, một hành động Người làm với sự hợp tác
của các môn đệ, thành phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và
lên trời, đã chứng tỏ mình thực sự được tái sinh thần linh, như
trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, ở chỗ, các
vị càng vui mừng vì được chịu khổ vì Đấng Phục Sinh và cứ tiếp tục
tỏ ra bất khuất trong việc rao giảng và làm chứng cho những
gì các vị đã thấy và đã nghe nơi Người.
Phúc Âm (Gioan
6:1-15):
"Lễ
Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu
ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người.
Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này
ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc
Người sắp làm. Philipphê thưa: 'Hai trăm bạc bánh cũng không đủ
để mỗi người được một chút'. Một trong những môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: 'Ở đây có một bé
trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu
thì thấm vào đâu cho từng ấy người'. Chúa
Giêsu nói: 'Cứ bảo người ta ngồi xuống'. Nơi đó có nhiều cỏ,
người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu
cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi
ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: 'Hãy thu lấy những miếng
còn lại, kẻo phí đi'. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do
năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư."
Bài Đọc I (Tông Vụ 5:34-42):
"'Tôi xin chư vị đừng can dự gì đến những người này, cứ để mặc họ: vì
nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược
bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang
tội chống đối Thiên Chúa'. Họ đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra
lệnh đánh đòn các ngài, và cấm tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu
mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị,
lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và
hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy,
và loan truyền Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô".
Phải
chăng hai môn đệ Philipê và Anrê trong bài Phúc Âm hôm nay cũng được
Thánh ký Gioan kể đến một cách vô danh rằng "hai
môn đệ khác" trong biến
cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với 7 tông đồ ở bờ biển Tibêria (xem
Gioan 21:2)? Phải chăng "năm chiếc bánh và 2 con cá" trong bài Phúc Âm
phép lạ bánh hóa ra nhiều lần
thứ nhất hôm nay,
được Thánh ký Gioan đề
cập tới có
liên quan đến 7 môn đệ rủ nhau đi đánh cá ở bài Phúc Âm được
Thánh ký Gioan kể đến ở đoạn 21 trên đây: 5
môn đệ có tên liên quan đến 5 ổ bánh và 2 môn đệ không có tên liên
quan đến 2 con cá??
Hai con cá Anrê và Philiphê trong bài Phúc Âm hôm nay phải chăng ám
chỉ các ngài cũng là những con cá được Chúa Kitô câu bắt được, giờ
đây, phải được Người nướng lên mới ăn được, như Người đã làm ở bờ
biển hồ Tibêria cho 7 môn đệ bắt được mẻ cá 153 con ăn, nghĩa là
phải trở thành hy tế cho phần rỗi nhân loại, phải chết đi cho dân
được sống. Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, 12 thúng còn dư
chỉ thu được từ 5 ổ bánh, hoàn toàn không thấy nói đến từ cá, vì
bánh đây ám chỉ Chúa Kitô, Đấng được các môn đệ làm chứng bằng hy tế
của mình cho loài người nhận biết Người hơn là chính các vị.
Đúng thế, các con cá tông đồ đều đã được Thày nướng lên cho chín, và
các vị không thể nào để cho Người nướng lên như thế nếu các vị không
sống đức tin, hoàn toàn tin tưởng phó thác trong bàn tay đầy quyền
năng của Người. Mà đức tin liên quan đến tác động "nhìn" hay "thấy"
hoặc "gặp", những tác động cần phải có của đức tin nhưng phụ thuộc
vào đức tin hơn là đức tin phụ thuộc vào chúng. Đó là lý do trong
dịp lễ Vượt Qua ở Giêrusalem, hai môn đệ Philiphê và Anrê này, (chứ
không phải các vị khác, bởi 2 vị này hình như biết tiếng Hy Lạp), đã
là những môn đệ trung gian môi giới được người Hy Lạp ở đó bấy giờ
ngỏ ý "chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Gioan
12:20-22).
Trong PVLC hôm
nay, Thứ Sáu Tuần II Phục Sinh, chúng ta vẫn thấy hiển nhiên chủ đề
"Thày là sự sống": "Thày là sự sống" ở các bài Phúc Âm Thứ Hai, Thứ
Ba và Thứ Tư tuần này liên quan đến việc tái sinh bởi trời, và hôm
nay những ai tái sinh bởi trời thì cần phải được nuôi dưỡng bằng
bánh sự sống thần linh là thứ bánh sẽ được
Chúa Kitô mạc
khải cho biết đó là chính bản thân Người trong các bài Phúc Âm
tới đây. Các tông đồ, cùng với những ai kế vị các ngài, phải
là thành phần thừa
tác viên Bánh Lời
Chúa và Bánh Thánh
Thể, như
các vị đã đóng vai trò này trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Tuy nhiên,
chính bản thân các vị còn phải trở thành tấm bánh bẻ ra nữa, như
chính Chúa Kitô, bằng những khổ đau thử thách của mình, nhờ đó các
ngài mới
trở thành bánh
nuôi sống đàn chiên được Chúa Kitô trao phó cho các ngài, như chính
Chúa Kitô Phục Sinh đã ủy thác cho vị
tông đồ trưởng Phêrô ở bờ biển Tibêria: "Con hãy chăn chiên lớn /
chiên bé của Thày" (Gioan 21:15-17), và
sau đó đã
kêu gọi ngài
"Hãy theo Thày" (Gioan 21:19), tiếp theo ngay
lời
Người kín đáo báo
cho vị
tông đồ này biết
"ngài phải chết cách nào" (Gioan 21:19), nghĩa là trở thành
tấm bánh bẻ ra như Người.
Thứ Bảy
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Bảy trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc
Chúa Giêsu đi trên biển đến với các tông đồ đang sang bên kia bờ và bị
sóng gió trong đêm tối,
một hành động Người làm để
củng cố đức tin cho các vị, để từ từ các vị được Người tái sinh thần
linh, thành
phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và lên trời, còn được
rửa trong Thánh Linh nữa, như
trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, chỉ
"chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa"
là những gì chính yếu trong sứ vụ và thừa tác
vụ mục tử của các vị.
Phúc Âm (Gioan
6:16-21):
"Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền,
sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu
vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi
chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa
Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng
Người nói với họ: 'Chính Thầy đây, đừng sợ'. Họ định rước Người lên
thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới".
Tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến Phép Lạ Bánh Hóa
Nhiều Chúa Giêsu làm nuôi dân chúng lần đầu tiên, với sự hợp tác
của các tông đồ, thành phần chẳng những đóng góp thiện chí và
phần phụ của mình trong phép lạ này, như một tập sinh sửa soạn
trở thành thừa tác viên Lời Chúa và Thánh Thể thực thụ trong
tương lai, mà còn là chính thừa tác viên Lời Chúa sau này, trao
ban Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể cho dân chúng khao khát thần
linh, qua việc giảng dạy của các ngài.
Đúng thế, một trong ba sứ vụ quan trọng bậc nhất của hàng giáo
phẩm như các ngài (quản trị, giảng dạy và thánh hóa), như Bài
Đọc I hôm nay cho thấy, đó là rao giảng Lời Chúa. Tuy nhiên,
việc giảng dạy và ban phát Lời Chúa càng có tác dụng mãnh liệt
hơn bao giờ hết khi chính bản thân các ngài trở thành tấm bánh
bẻ ra nuôi dân chúng, như chính Chúa Giêsu đã trở thành Tấm Bánh
Bẻ Ra qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, và bản thân của các
vị là môn đệ không hơn được Thày cũng cần phải chung số phận như
Người.
Điển hình là trường hợp các vị, ở trong Bài Đọc I hôm qua cho
thấy, đã bị hội đồng dầu mục Do Thái đánh đòn, nhưng các vị vì
thế lại cảm thấy vui mừng và hãnh diện, chứng tỏ các vị thực sự
là một tấm bánh đầy sức sống thần linh được bẻ ra làm chứng cho
Chúa Kitô Phục Sinh vậy. Nhờ đó, sau biến cố Hiện Xuống, những
lời rao giảng đầy sức sống thần linh của các ngài đã dồi dào hoa
trái thiêng liêng: 3000 người trở lại sau bài giảng tiên khởi
(xem Tông Vụ 2:41) và 5000 người nhận biết Chúa Kitô sau bài
giảng thứ hai (xem Tông Vụ 4:4).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, để sửa soạn cho các vị trở thành tấm
bánh bẻ ra nhờ đó trổ sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng như
mình, chính Chúa Kitô đã từ từ bẻ các vị ra bằng những cuộc thử
thách đức tin, như đã xẩy ra cho các vị ở tiến trình thử
thách được chia ra làm 3 giai đoạn như sau:
Trước
hết, sự kiện "trời
đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ" quả
thực là tình trạng mỗi khi vắng bóng Thiên Chúa, nhất là khi chúng
ta tìm kiếm Ngài mà chẳng thấy Ngài đâu, ngược lại Ngài lại tự ẩn
mặt đi hay cố ý khuất dạng khỏi cảm giác hay lý trí của chúng ta, chúng
ta cảm thấy lẻ
loi cô độc và sợ
hãi.
Sau nữa,
sự kiện "bỗng
cuồng phong thổi lên, biển động mạnh" là
sự kiện lưỡng diện cho thấy, trước hết, đối với nạn nhân trong cuộc
thì thật là bất hạnh và nguy
hiểm, mà
thường bao giờ không có Chúa, như ở trong tối tăm đức tin thì thế
nào cũng gặp "ma", gặp thử thách và cám dỗ, tuy nhiên, đối
với chính Đấng muốn tỏ mình ra thì đó lại là sự kiện báo trước việc
Ngài sắp xuất hiện, như các hiện tượng thiên nhiên (sấm xét. chớp
sáng, động đất, lửa cháy v.v.) trước mỗi cuộc thần
hiển của
Thiên Chúa trong hành trình về Đất Hứa của Dân Do Thái. Bởi thế,
ngay sau sự kiện "bỗng
cuồng phong nổi lên, biển động mạnh" thì "Chúa
Giêsu đi trên mặt biển tiến lại gần thuyền".
Sau hết,
sự kiện "họ
định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ
định tới" cho thấy,
một khi có sự hiện diện của Chúa thì mọi sự trôi chảy và linh hồn
cảm thấy tiến nhanh trên đường nhân đức, nhất là sau mỗi lần thắng
vượt được thử thách,
nhờ đó đức
tin càng mạnh và đời sống siêu nhiên càng tăng trưởng lạ lùng ngoài
sức tự nhiên cố gắng trước đó mãi mà hầu như vẫn
dậm chân tại chỗ.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 6:1-7):
"Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên
xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc
phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên
Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: 'Chúng tôi bỏ việc rao
giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em,
anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần
và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ
chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa'. Cả đoàn thể đều tán thành lời
các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn
Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ
đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay
trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng
rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin".