SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Hc 27, 33 - 28, 9
"Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha".
Trích sách Huấn Ca.
Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm, người có tội đều mắc cả hai. Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù, và Chúa nghiêm trị tội lỗi nó. Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao? Nó là xác thịt mà tích lòng thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?
Ngươi hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù: hãy nhớ đến sự hư nát và sự chết, hãy trung thành với các giới răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10. 11-12
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (c. 8).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.
4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân hậu Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 14, 7-9
"Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống, Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 21-35
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cho vay nợ ăn lời Lòng Thương Xót Chúa: 100 bạc lời 10 ngàn nén bạc
Có thể nói nội dung và ý nghĩa của tất cả phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A hôm nay ở ngay câu mở đầu cho bài Đọc 2: "không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình". Tại sao thế? Tại vì, chúng ta được Thiên Chúa thương xót thì cũng phải thương xót như Ngài, đúng như Lời Chúa Kitô nhắc nhở và khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?"
Thật vậy, nếu Kitô hữu nhận biết mình là một tạo vật vô cùng hèn hạ và khốn nạn, lại còn tội lỗi đáng bị trừng phạt hơn là được tưởng thưởng, vì họ lập công thì ít lại hiếm mà phạm tội thì nhiều và liên lỉ, và tội lỗi họ phạm đến Thiên Chúa là Đấng vô cùng là một món nợ không thể nào tự mình họ có thể thanh toán nổi và bù đắp cho cân xứng, chẳng khác gì như trường hợp được Chúa Giêsu nhắc đến trong Bài Phúc Âm hôm nay: "một người mắc nợ mười ngàn nén bạc... không có gì trả", cho dù có đánh đổi chính bản thân họ cùng với những gì yêu quí nhất của họ: "bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", họ cũng không thể trả hết nợ.
Tuy nhiên, theo phép công bằng con nợ vẫn phải làm sao để trả cho bằng được một khi bị chủ nợ đòi, nếu chưa trả nợ được ngay và hết thì ít là xin chủ nợ cho khất nợ, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Lạ lùng thay, chỉ cần một lời van xin khất nợ như thế, chứ không phải xin tha nợ, mà chủ nợ lại quá bao dung rộng lượng đến độ chẳng những không để cho con nợ khất nợ mà còn tha ngay cho con nợ món nợ kếch sù bất khả thanh toán của con nợ nữa.
Thế mà, tấm lòng vô cùng nhân hậu và bao dung tha thứ của chủ nợ lại trở thành vô giá trị và bất tác dụng nơi con nợ bất khả trả nợ nhưng đã được tha bổng nợ nần ấy. Ở chỗ, con nợ chỉ biết hưởng thụ lòng thương xót của chủ nợ mà không phục vụ là thương xót anh chị em phạm đến họ. Trong khi họ là loài người thì những ai phạm đến họ cũng là loài người như họ cũng chẳng đáng là bao, chỉ đáng "một trăm bạc", so với "mười ngàn nén bạc" mà họ nợ chủ nợ của họ.
Ấy thế mà, con nợ được chủ nợ vô cùng bao dung tha cho đã quá ư là hung bạo "tóm lấy, bóp cổ", đòi phải trả nợ cho hắn ngay lập tức tất cả số nợ nhỏ mọn ấy: "Mày phải trả nợ cho tao", cho dù con nợ đáng thương của hắn cũng tỏ ra cùng một cử chỉ "sấp mình dưới chân và van lơn" và cùng một câu nói giống hệt như hắn đã tỏ ra với vị chủ nợ nhân hậu của hắn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh".
Trong khi hắn chỉ khất nợ mà được chủ nợ tha hết nợ cho thì đối với con nợ của mình, cho dù cũng xin khất nợ với hắn để từ từ trả cho hắn, chứ không quịt nợ hắn hay xin hắn tha nợ cho, thì hắn lại bất chấp, không chịu, trái lại, hắn còn "bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong". Kitô hữu nào chấp nhất anh chị em mình, thì cũng giam nhốt anh chị em của mình trong lòng mình, bởi thế họ lúc nào cũng mới cảm thấy nặng mình, khó chịu, cho đến khi họ tha thứ cho anh chị em họ, lúc họ, họ nhẹ mình hơn lúc nào hết.
Như thế, những ai nhỏ mọn chấp nhất anh chị em phạm đến mình, không chịu tự động tha cho con nợ của mình, nghĩa là, theo tinh thần của Chúa Kitô, nạn nhân phải làm hòa với phạm nhân, thì chẳng những họ nhốt anh chị em mình trong lòng họ mà còn nhốt chính họ ở trong đó nữa, đúng như lời Chúa Giêsu cảnh báo họ:
"Vậy, vào lúc các con sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em phạm đến các con, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Các con hãy mau mau dàn xếp với đối phương (ám chỉ với con nợ của mình bằng việc làm hòa trước), khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công (ám chỉ khi còn sống, trước khi chết và ra tòa phán xét của Thiên Chúa), kẻo người ấy nộp các con cho quan tòa (ám chỉ cho Lòng Thương Xót Chúa đã thương họ là con nợ tội nhân đã phạm đến Ngài), quan tòa lại giao các con cho thuộc hạ (ám chỉ luật công bằng một khi được Chúa là chủ nợ của mình thương thì cũng phải biết thương con nợ của mình), và các con sẽ bị tống ngục (ám chỉ bị nhốt trong ngục thất của lòng vị kỷ bé mọn hẹp hòi chấp nhất của mình). Thầy bảo thật cho các con biết: các con sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng (ám chỉ việc chủ nợ hoàn toàn tha nợ cho con nợ của mình, không chấp nhất con nợ của mình một tí gì nữa, dù con nợ ấy không xin mình tha cho và đã cố tình xúc phạm đến mình)". (Mathêu 5:23-26).
"Người ấy nộp các con cho quan tòa, quan tòa lại giao các con cho thuộc hạ, và các con sẽ bị tống ngục" quả thực đã xẩy ra đúng như thế, như cho "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn được Chúa Kitô nói đến ở phần cuối của Bài Phúc Âm hôm nay. Ở chỗ: tuy con nợ của "tên đầy tớ độc ác" này không trực tiếp đích thân nộp hắn "cho quan tòa", nhưng hoàn cảnh đáng thương của con nợ ấy đã được trình lên chủ nợ của "tên đầy tớ độc ác" ấy biết: "Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện". Nên "tên đầy tớ độc ác" này đã bị chủ nợ là "quan tòa lại giao các con cho thuộc hạ": "Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Ở đây, chúng ta thấy 2 chi tiết cuối cùng hơi khác: 1- trong khi "tên đầy tớ độc ác" "bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong", thì chủ nợ của hắn lại không tống hắn vào ngục, mà chỉ "trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ". Vì Lòng Thương Xót Chúa không giam nhốt ai bao giờ, dù họ xấu xa gian ác mấy chăng nữa, như tấm lòng hẹp hòi chấp nhất của loài người thích giam nhốt các con nợ của mình; 2- Tuy nhiên con nợ bất công ấy lại bị chủ nợ thay vì nhốt vào ngục thì "trao y cho lý hình hành hạ", nghĩa là bắt con nợ "độc ác" ấy bị công lý của Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu xót thương "hành hạ": "Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi chứ?"
Trường hợp của "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn tha nợ của Bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã ứng nghiệm lời Sách Huấn Ca ở Bài Đọc 1 cùng ngày: "Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù, và Chúa nghiêm trị tội lỗi nó....". Thế nhưng, muốn tha thứ và không báo oán nhau, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy như thế này: "Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác". Nghĩa là hãy nhớ rằng mình cũng là con nợ và đã được Thiên Chúa thương xót thế nào thì cũng phải thương nhau như vậy, bằng không, chúng ta vẫn con nặng nợ Thiên Chúa nếu chúng ta cứ nằng nặc bắt nợ nhau cho đến cùng: "Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Tại sao con nợ ""độc ác" quá ngu xuẩn dại dột đến như thế, ở chỗ chỉ mất có 100 bạc để đánh đổi chiếm được cả 10 ngàn nén bạc, không chịu, để rồi, chỉ vì lòng tham vô đáy, chẳng những muốn hoan hưởng 10 ngàn bạc khổng lồ mà còn cả 100 bạc nhỏ mọn nữa, nên mới mất cả chì lẫn chài. Phải nói là thảm thương và đáng thương. Nguyên nhân sâu xa chỉ vì con nợ này chưa thật sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, được thương nhưng vẫn không thấy được cái giá trị vô cùng cao quí của Lòng Thương Xót, như cảm nghiệm thần linh về Vị "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân" (Câu Họa Đáp Ca Chúa Nhật này) được Thánh Vịnh gia bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân hậu Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 11, 17-26
"Anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi truyền dạy điều này: tôi chẳng khen anh em, vì anh em hội nhau, không phải để được ích lợi hơn, nhưng là để ra tệ hơn. Trước tiên, tôi nghe đồn rằng: khi anh em họp nhau trong cộng đoàn, thì có sự chia rẽ giữa anh em, và tôi cũng tin phần nào. Vì cần phải có phe phái, để những người đã được thử thách, được tỏ rõ giữa anh em. Vậy khi anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa, vì mỗi người đều lo đem bữa ăn riêng của mình đến để ăn. Vì thế người thì đói, người khác lại say sưa. Chớ thì anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh miệt Cộng Ðoàn Thiên Chúa, và làm nhục những kẻ không có gì? Tôi phải nói thế nào với anh em? Khen anh em ư? Về điều này, tôi chẳng khen anh em.
Vì chưng, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: "Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến.
Vậy hỡi anh em, khi anh em họp nhau để dùng bữa, anh em hãy chờ đợi nhau.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17
Ðáp: Anh em hãy loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến (1 Cr 11, 26b).
Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Người. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 18
Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 1-10
"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
Ðó là lời Chúa.
(biệt chú: vì không thể tìm tấm hình nào khác đành sử dụng tạm tấm hình trên thôi - vì theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, thì viên sĩ quan chỉ "sai vài người kỳ lão" đến với Chúa, chứ đích thân ông không đến như trong Phúc Âm Thánh Mathêu)
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Một thẩm quyền ngoại bang đế quốc nhập nhiễm văn hóa Do Thái giáo
Bài
Phúc Âm cho Thứ
Hai Tuần
XXIV Thường Niên hôm nay là bài tiếp ngay sau Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần
trước, tức ngay sau bài giảng về việc sống Lòng
Thương Xót như
Cha trên trời.
Đó là lý do, mở đầu bài Phúc Âm hôm
nay đã có câu móc nối một cách mạch lạc như sau: "Sau
khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào thành
Carphanaum". Qua câu
mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu huấn dụ về việc sống
Lòng Thương Xót đây chẳng những trực tiếp cho thành phần tông đồ môn đệ
của Người khi "ngước
mắt lên nhìn các môn đệ và nói" (Luca
6:20), mà
còn cho cả dân chúng ở chung quanh các vị nữa: "Tại
đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđêa,
Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tyro và Sidon đến để nghe Người giảng" (Luca
6:17-18).
Nếu đối với các tông đồ môn đệ của mình,
Chúa Giêsu chú trọng tới giáo huấn thế nào, như Người đã huấn dụ các
vị ở Bài Giảng Phúc Đức
Trọn Lành Trên Núi (xem Mathêu các đoạn 5-7), hay ở Loạt Dụ Ngôn về Nước
Trời nhất là về ý nghĩa sâu nhiệm của một số dụ ngôn Người giải thích riêng
cho các vị (xem Mathêu đoạn 13), hoặc ở Bữa Tiệc Ly (xem Gioan các đoạn
14-17), thì đối
với chung dân chúng, bao gồm cả dân ngoại, Người
chú trọng đến việc chữa lành cho họ hơn, vì đó là nhu cầu của họ và đó cũng
là nhu cầu tỏ mình ra của Người là Đấng Cứu Thế nơi họ nữa.
Thật
ra phép lạ chữa lành này của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được
bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại và được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ
Bảy Tuần XII Thường Niên rồi (Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XII Thường Niên). Sở
dĩ Giáo Hội muốn đọc lại câu chuyện chữa lành này có thể là vì bài Phúc Âm
hôm nay được
Giáo Hội chọn đọc
cùng với một bài đọc Tân Ước, chứ không phải bài đọc Cựu Ước như lần trước. Tuy
nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, phép lạ chữa lành dường như chỉ là những
gì phụ thuộc và chỉ xẩy ra nhờ đức tin của một viên sĩ quan Roma dân ngoại
đầy lòng yêu thương.
Bởi thế,
trong Bài Đọc
1 hôm nay, khi viết cho Giáo đoàn Corinto bức thư thứ
1, Thánh Phaolô đã đề cập đến vấn đề
tin tưởng trong việc cử hành Thánh Thể một cách xứng đáng,
ở chỗ yêu thương nhau nữa: "Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này,
anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến. Vậy hỡi anh em, khi anh em họp nhau để
dùng bữa, anh em hãy chờ đợi nhau." Và câu: "Anh
em hãy loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến" (1 Cr 11,
26b),
được Giáo Hội biến thành câu họa của Bài Đáp Ca
hôm nay, một tác động loan truyền bao gồm cả
nguyên tắc: "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6).
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, nhân vật ngỏ ý xin Chúa Giêsu chữa lành chẳng những là một
người dân ngoại mà còn là một trong "những
người cầm quyền" (Bài Đọc
1), với
vai trò là "một
viên đại đội trưởng" (Bài
Phúc Âm), nhưng
lại là một viên đại đội trưởng vừa thương người vừa khiêm tốn.
Viên đại đội trưởng này thương người ở
chỗ ông đã lưu tâm đến một trai đầy tớ đang hấp hối trong nhà lúc bấy
giờ và đã từng giúp đỡ dân chúng đến độ được dân mến thương: "Một
viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý
người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người
Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. Họ đến gặp Đức Giê-su
và khẩn khoản nài xin Người rằng : 'Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn
cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng
ta'".
Khiêm tốn ở chỗ tự cảm thấy bất xứng
nên không dám đến gặp Chúa và cũng không đáng được Chúa đặt chân vào tệ
xá của ông: "Đức
Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì
ông này cho bạn hữu ra nói với Người: 'Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá
như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không
nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ
của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng
có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: 'Đi !' là nó đi ; bảo người
kia : 'Đến !' là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : 'Làm cái này !' là nó
làm".
Đức bác ái và lòng khiêm tốn của viên đại đội trưởng có thẩm quyền này quả thực đã cho thấy đức tin của ông ta vào Thiên Chúa, cho dù ông thuộc thành phần dân ngoại, một đức tin chưa chắc dân Do Thái đã có, một đức tin cứu độ. Đó là lý do Chúa Giêsu đã không thể nào không hết lời khen ông ta trước mặt dân Do Thái rằng: "Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: 'Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế'. Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn".
Bởi thế, Kitô hữu chúng ta đừng khinh thường những ai là Phật giáo hay Hồi giáo, trong họ không ít người đầy lòng thành và sống chân thực cùng yêu thương bác ái hơn cả Kitô hữu nữa, thành phần Kitô hữu không ít người thật là gian dối, đầy lòng hận thù ghen ghét, tranh giành lừa đảo, làm gương mù gương xấu cho lương dân, thành phân dân chúng lương thiện đang cần những chứng từ sống động và trung thực về Chúa Kitô để họ trở về với Người là chính "Đạo".
Đúng thế, viên đại đội trưởng thuộc đế quốc Roma ngoại bang này, cho dù có quyền hành trên cả hơn 100 binh lính thuộc quyền, và cả dân chúng trong vùng của mình, nhưng với tâm hồn bác ái yêu thương và thương cảm dân Do Thái bị đô hộ, đã nhờ đó nhập nhiễm văn hóa Do Thái giáo, ở chỗ, Do Thái giáo cho thành phần dân ngoại như ông là đồ ô uế, xấu xa tội lỗi, nên ông đã chẳng những không dám đích thân đến với Chúa Giêsu, mà còn không để cho Người vào ngôi nhà bất xứng của ông nữa, nghĩa là, bao gồm cả ông lẫn những gì thuộc về ông đều bất xứng bởi đời sống buông thả tội lỗi của dân ngoại chưa biết Chúa.
LỄ THÁNH DANH MARIA CỦA ĐỨC MẸ NGÀY 12/9
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp từ 3 nguồn khác nhau, bao gồm cả một chút chia sẻ của mình
Kính chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu,
Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời,
Chói loà trinh tiết gương soi,
Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung.
Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự,
Gáp-ri-en thần sứ tặng ban,
Chữ “E-va” Mẹ đảo vần
Thành “A-ve” gửi bình an cho đời.
Xin cởi dây trói người tội lỗi,
Mở mắt ai tăm tối đui mù,
Đuổi xa hoạn nạn rủi ro,
Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa.
Xin chứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu,
Chuyển lời cầu đạt thấu Hoàng Thiên,
Toà cao Thánh Tử uy quyền,
Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần.
Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví,
Ôi hiền hoà tuyệt thế Nữ Trinh,
Cứu đoàn con khỏi tội tình,
Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây !
Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng,
Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo,
Mai ngày gặp Chúa Giê-su,
Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hoà.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái,
Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường,
Thánh Thần trải rộng tình thương,
Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh.
I. THÁNH DANH MARIA - PHỤNG VỤ
Năm 1683, sau khi chiếm nước Hungary, quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào nước Áo và dùng hai vạn quân binh để vây hãm kinh đô Vienna của nước này.
Dân thành Vienna hiệp nhau phòng thủ hết sức cẩn thận vì họ biết rằng sa vào tay quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ thì thế nào cũng bị hành hạ rất dã man.
Trong lúc dân thành Vienna sống trong phập phồng lo sợ, thì họ lại hú vía khi biết được rằng một nhà thờ đang bị bốc lửa, và lửa lan rộng rất nhanh, lan đến gần kho vũ khí. Nếu lửa chạm vào kho vũ khí, kho vũ khí sẽ nổ lớn, thành phố sẽ thiệt hại nặng về tài sản và nhân mạng, và quân địch sẽ vào chiếm thành dễ dàng.
Hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu Thăng Thiên. Toàn dân thành Vienna sốt sắng kêu xin Đức Mẹ cứu họ khỏi thảm cảnh lửa cháy này. Họ van lên lớn tiếng Danh Thánh Mẹ “Lạy Mẹ Maria! Lạy Mẹ Maria!”
Lạ thay! Ngọn lửa đang cháy rùng rợn, bỗng dừng lại trước kho vũ khí và tắt. Kho vũ khí không nổ.
Trong khi đó, dân thành Vienna lại nhận được tin vui: viện binh Ba Lan của tướng Sobieski và việnh binh Đức của ông hoàng Carlo di Lorena đang tìm cách đến giải vây thành Vienna. Hai toán quân này gặp nhau trên đường đi cứu viện. Trước khi tiến quân ra trận giải cứu, họ tham dự thánh lễ. Và sau khi tham dự thánh lễ, họ đồng thanh hô to: “Chúng ta hãy lên đường! Đức Mẹ Maria sẽ ở cùng chúng ta!”
Một trận chiến nẩy lửa xảy ra. Quân Thổ bại trận, rút lui, để lại rất nhiều vũ khí, trong đó có 200 khẩu đại bác. Một nữa quân lính của họ bị thương và chết.
Đức Giáo Hoàng Inôxenxiô XI tuyên bố lập Thánh lễ dâng kính Thánh Danh Đức Mẹ Maria để kỷ niệm trận thắng lạ lùng này.
(Website của Cộng Đoàn Dũng Lạc)
II. THÁNH DANH MARIA - TÊN GỌI
Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.
Trong Thánh kinh
có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds
12:1-10);
2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê
và Gioan;
7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm
16:6).
III. THÁNH DANH MARIA - Ý NGHĨA
Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:
1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave Maris Stella".
2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.
3. Maria tiếng Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".
4. Maria tiếng Ugarit là "mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.
5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris.
6. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.
7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.
L.m. Phêrô Ngô Minh Châu, CRM (phần II + III trên đây)
IV. THÁNH DANH MARIA - XUẤT XỨ
Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ cho các thiên thần biết rằng từ đời đời Ngài đã tác tạo cho Mẹ và cho Ngôi Con danh hiệu Maria và Giêsu. Trong hai danh hiệu đó, Ngài được thỏa lòng hoàn toàn. Rồi Ngài phán: "
Danh hiệu Maria phải được hiển vinh lạ thường. Những ai thành thực sốt sắng kêu cầu danh hiệu ấy sẽ được ban nhiều ân sủng. Những ai kính cẩn đọc lên sẽ được ủi an. Mọi người đều tìm được trong danh hiệu ấy phương dược trị liệu bệnh tật mình; được ánh sáng soi đường; được kho tàng cứu giúp sự túng nghèo. Danh hiệu Maria làm run sợ hoả ngục và đạp nát đầu cựu xà Satan".Chính Chúa đặt danh hiệu ấy cho Mẹ. Mẹ đón nhận với những lời ca ngợi lạ lùng. Lúc Thiên Chúa đọc danh hiệu ấy lên, các thiên thần đều phủ phục, bái chào, hát lên thánh ca tán tụng, nhất là những vị mang biểu hiệu danh hiệu ấy càng nhiệt liệt tán tụng hơn.
Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Danh Hiệu ấy không biết bao nhiêu là ân sủng và đặc ân. Mẹ không thể nghĩ đến hay nghe đọc đến Danh Hiệu ấy mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa. Cho nên Mẹ quyết định làm những việc cả thể cho Chúa là Đấng đã ban cho Mẹ Danh Hiệu quí báu ấy.
(Trích từ Thần Đô Huyền Nhiệm, bản dịch của Phạm Duy Lễ)
V. THÁNH DANH MARIA - CĂN TÍNH
Xét cho cùng thì Thánh Danh Maria của Đức Mẹ là chính căn tính của Mẹ. Bởi thế, trong lời chào của Tổng sứ thần Gabiên mở đầu cho biến cố Truyền Tin, chỉ là "Kính mừng đầy ơn phúc" (Luca 1:28), chứ không phải "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn đọc. Nếu bình thường, khi chào ai thì chào tên người ấy, thì khi Tổng sứ thần Gabiên chào "kính mừng đầy ơn phúc" ngài thật sự đã ám chỉ "Maria", "một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a" (Luca 1:27). Như thế, quả thực "đầy ơn phúc" là chính Thánh Danh của Mẹ, một con người lịch sử mang tên gọi là "Maria, "mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô" (Mathêu 1:16).
Tên gọi bao giờ cũng chất chứa, nói lên hay phản ảnh chính căn tính của một hữu thể. Nếu tên của Thiên Chúa, được Ngài trả lời cho Moisen từ cuộc thần hiển bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi là "I am who am - Ta là Đấng hiện hữu (hay) Ta là Đấng có" (Xuất Hành 3:14), nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, hằng hữu, toàn hữu, theo bản tính thần linh của Ngài, không ai dựng nên Ngài, trái lại, Ngài đã chẳng những tạo dựng nên tất cả mọi tạo vật hữu hình và vô hình trên trời dưới đất, mà còn quan phòng tất cả mọi sự một cách vô cùng khôn ngoan và toàn năng trong giòng lịch sử của chung tạo vật, nhất là của riêng loài người.
Thế nên, trong Lịch sử Cứu độ của dân Do Thái, Ngài mới liên lỉ hiện hữu, thủy chung, "bởi Ngài không thể nào chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13), không bao giờ thay đổi, không bao giờ bỏ họ dù họ có bỏ Ngài, đến độ, Ngài luôn ra tay cứu độ họ rất nhiều lần, trước hết và trên hết, nơi biến cố vượt qua từ Ai Cập, nơi họ mang thân phận nô lệ bất xứng, mà đem họ vào mảnh đất hứa chảy sữa sự sống và mật tự do của thành phần dân riêng của Ngài. Nên Ngài đã tự động xác nhận thêm về danh xưng của Ngài với Moisen cho rõ ràng hơn nữa: "Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: 'Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia'." (Xuất Hành 3:15).
Như thế, nếu danh xưng của Thiên Chúa trong lịch sử nghĩa là "thủy chung" đối với dân của Ngài, tức Ngài "là Alpha và là Omega, là nguyên thủy và là cùng tận" (Khải Huyền 21:6), "Đấng hiện có, đã có và đang đến, Đấng toàn năng" (Khải Huyền 1:8), mà "thủy chung" gắn liền với "tình yêu mạnh như sự chết" (Diễm Tình Ca 8:6), một "thủy chung" là chính bản chất của tình yêu, là căn tính của Vị "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16), dám "chết cho người mình yêu" (xem Gioan 15:13), thì "đầy ơn phúc", ám chỉ Maria, là phản ảnh trung thực và sống động tình yêu thủy chung muôn thuở bất diệt này của Thiên Chúa, hay đúng hơn, là phản ảnh trung thực và sống động chính Vị "Thiên Chúa là tình yêu". Do đó nên đệ nhất tạo vật về ân sủng "đầy ơn phúc" Maria mới được Diễm Tình Ca trong Cựu Ước tỏ ra bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy "Kìa bà nào đang tiến lên ... rực rỡ như mặt trời" (6:10).
Có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương trên hết mọi thụ tạo của Ngài: "Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" (Luca 1:28), không phải chỉ bắt đầu vào chính lúc vị Tổng sứ thần chào Mẹ, mà ngay từ khi Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu, với ơn vô nhiễm nguyên tội Chúa ban cho Mẹ, và chính bản thân Mẹ đã nhận biết đặc ân ấy của mình, nên Mẹ đã "được ơn nghĩa với Chúa (hay) đẹp lòng Chúa" (Luca 1:30).
Về phần mình, Mẹ đã luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng ấy của Thiên Chúa, nghĩa là, Mẹ đã để cho Thiên Chúa yêu thương Mẹ cho đến cùng, đã để Ngài được tự do tỏ tất cả mình ra cho Mẹ và qua Mẹ, trong cả mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Con Ngài, tùy theo cách thức của Ngài, tùy Ngài định đoạt tất cả mọi sự về Mẹ và nơi Mẹ, ở chỗ, Mẹ chỉ biết hoàn toàn và tuyệt đối phó thác tất cả bản thân của Mẹ và cuộc đời của Mẹ cho Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì ngài truyền" (Luca 1:38). Bởi đó, Mẹ mới "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), và mới được "hết mọi đời chúc khen diễm phúc" (Luca 1:48): "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", như "một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao" (Khải Huyền 12:1).
Có thể nói, đối với satan và bọn ngụy thần hỏa ngục đang tấn công Giáo Hội hơn bao giờ hết đây, còn kinh sợ Thánh Danh Maria của Đức Mẹ hơn cả Thánh Danh Giêsu nữa. Không phải vì Thánh Danh Maria hơn Thánh Danh Giêsu, hay Mẹ Maria cao hơn Chúa Giêsu, mà chỉ vì Thánh Danh Maria chỉ là một thụ tạo thuần túy đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà chúng vô cùng kiêu hãnh bị thua bại thì mới nhục nhã hơn là chúng thua Chúa Kitô dầu sao cũng là Vị Thiên Chúa Làm Người. Và chúng đã thực sự bị thua ngay từ giây phút hoài thai của nhân vật lịch sử "đầy ơn phúc" Maria này, và cũng nhân vật "đầy ơn phúc" Maria ấy đã đạp nát cái đầu rắn quỉ kiêu căng ngạo mạn quỉ quyệt gian dối của luxiphe nơi satan cùng bọn ngụy thần, ở dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô Con Mẹ, để rồi cuối cùng, nhân vật "đầy ơn phúc" Maria này sẽ tiếp tục đạp nát đầu hắn cho tới tận thế, nơi từng thành phần con cái hèn nọn như gót chân của Mẹ bị hắn rình cắn..., như Mẹ đã tiên báo ở Fatima ngày 13/7/1917 ở cuối Bí Mật Fatima phần thứ 2: "Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng!" .
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, lễ Thánh Danh Mẹ 12/9/2020)
Thiên Chúa đã cho Thánh Mẫu của Đức Ki-tô trổi vượt hơn muôn loài trên trời dưới đất ; chúng ta hãy thiết tha cầu nguyện :
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con một người mẹ và một gương mẫu là Đức Ma-ri-a,
- vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con được nên thánh.
Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a biết để tâm nghe lời Chúa, và phụng sự Chúa như một nữ tỳ trung tín,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin làm cho chúng con trở thành môn đệ chân chính của Đức Ki-tô.
Chúa đã nhờ quyền năng Thánh Thần mà làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai Con Một Chúa,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin rộng ban cho chúng con những ân huệ Thánh Thần.
Chúa đã ban cho Đức Mẹ đầy sức mạnh mà đứng gần thập giá, và được vui mừng khi Con Chúa sống lại,
– vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin ra tay nâng đỡ chúng con trong lúc ngặt nghèo, và cho chúng con vững lòng trông cậy.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 12-14. 27-31a
"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của chỉ thể".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một, mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người theo phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các Tông đồ, thứ đến là các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là Tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư? Anh em hãy cần mẫn sao cho được những ân điển cao trọng hơn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2. 3. 4. 5
Ðáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan vơi lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta và ta thuộc quyền sở hữu của Người. Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 11-17
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa". Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bà mẹ góa đi chôn đứa con trai duy nhất trong tâm trí Chúa Giêsu bấy giờ là ai?
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua phép lạ Người hồi sinh đứa con trai duy nhất của bà góa thành Nain nhờ đó Người được dân chúng nhận biết:
"Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Naim, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa!' Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: 'Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!' Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: 'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người'. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, bình thường, nhất là theo chiều hưóng của Phúc Âm Nhất Lãm, Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy có đức tin nơi con người ta nói chung và nơi thỉnh nguyện nhân nói riêng. Nhưng ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, phép lạ hồi sinh Người làm cho cậu con trai của bà mẹ góa hoàn toàn do Người tự ý, chứ bà mẹ của người chết không hề ngỏ ý xin hay tỏ đức tin gì hết.
Xét cho cùng thì dù Chúa Giêsu làm phép lạ khi thấy đức tin nơi con người hay tự làm phép lạ cả hai đều để tỏ mình ra. Theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan thì thường Người tỏ mình ra để cho con người nói chung và môn đệ của Người nói riêng tin vào Người. Bởi vì, Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12). Mà ánh sáng không chiếu soi không còn là ánh sáng nữa. Bởi thế, Người luôn phải đi bước trước, ở chỗ tự động tỏ mình ra bằng những "dấu lạ / sign" (từ ngữ được Thánh ký Gioan sử dụng thay từ ngữ "phép lạ - micracle" được Phúc Âm Nhất Lãm sử dụng).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca cũng cho thấy trường hợp Chúa Giêsu tự động tỏ mình ra, qua sự kiện Người làm cho đứa con trai duy nhất của người mẹ góa hồi sinh. Thế nhưng, tại sao Người lại tự động làm phép lạ hồi sinh đứa con bà mẹ góa này, nếu không phải, như bài Phúc Âm cho biết: "Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương".
Ở đây, qua câu Phúc Âm này, Thánh ký Luca, một người ngoại trở lại và viết Phúc Âm cho dân ngoại theo chiều hướng của Lòng Thương Xót Chúa, đã ghi nhận được cả tấm lòng đầy cảm thương của Chúa Giêsu như thế, như thể chính ngài đang có mặt vào lúc bấy giờ. Nhưng tại sao khi làm các phép lạ khác vào những lần khác không thấy vị Thánh ký này thêm một câu tương tự như thế: "Trông thấy ... Chúa chạnh lòng thương".
Trông thấy ai? - "Trông thấy bà", chứ không phải trông thấy quan tài của đứa con trai duy nhất của bà, thì Chúa Giêsu cảm thấy thế nào? - "chạnh lòng thương". Tại sao vậy? Thánh ký Luca đã gián tiếp trả lời ở ngay câu trước đó: "mẹ anh ta lại là một bà goá" cũng như câu sau đó Chúa Giêsu trấn an thông cảm với bà, một cử chỉ hiếm quí hầu như Người chưa làm với ai bao giờ: "Bà đừng khóc nữa!"
Phải chăng Chúa Giêsu "trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương", kèm theo cử chỉ hết sức đặc biệt với người mẹ góa này bằng lời an ủi trấn an: "Bà đừng khóc nữa!", là vì bấy giờ cảnh tượng người mẹ góa đưa xác đứa con trai duy nhất của bà đã gợi lên nơi Người hình ảnh về Mẹ của Người, người mẹ góa có một người con trai duy nhất là Người, trong tương lai, cũng trải qua hoàn cảnh y như của bà goá thành Nain này, khi Người là con trai duy nhất của Mẹ qua đời ở Sọ Trường trên Đồi Canvê? Nếu đúng như thế thì phép lạ Người hồi sinh cho đứa con trai của bà mẹ góa thành Naim này là dấu tiên báo về Người Mẹ Đồng Công của Người trong cuộc Vượt Qua với Người vậy.
(Không ngờ bài Phúc Âm hôm nay, trong chu kỳ phụng vụ Năm A, lại trùng ngày và rất thích hợp với Lễ Mẹ Đau Thương 15/9 năm 2015 và 2020, nếu đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan 19:25-27, về sự kiện Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu Con Mẹ).
Sự kiện Chúa Kitô là Vị Mục Tử Nhân Lành "chạnh lòng thương", thương từng con chiên của mình, nhất là những con chiên bị thương tích trong tâm hồn, như thương người mẹ góa trước cái chết của người con trai duy nhất trong bài Phúc Âm hôm nay, cần phải trở thành mô phạm trọn lành và tối cao cho thành phần mục tử được Người tuyển chọn làm môn đệ tông đồ của Người cũng như thành phần thừa kế các vị.
Bởi thế nên trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô đã nói đến các vai trò khác nhau trong Giáo Hội, cả về phẩm trật lẫn đặc sủng như sau: "Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các Tông đồ, thứ đến là các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là Tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?"
Tuy nhiên, hình như bằng ấy vai trò, cả về phẩm trật lẫn đặc sủng đưoơc ngài liệt kê ấy vẫn chưa đủ, do đó vị tông đồ dân ngoại này vẫn khuyên những ai được ban cho các vai trò ấy rằng: "anh em hãy cần mẫn sao cho được những ân điển cao trọng hơn" - đó là ẩn điển nào? Phải chăng đó là ơn được biết phục vụ hơn là hưởng thụ, nhắm đến mối hiệp thông trong Giáo Hội trước hết và trên hết, theo tác động của Chúa Thánh Thần, hơn là chia rẽ theo bè phái và cạnh tranh nhau, như đã từng xẩy ra ở giáo đoàn này. Ngài đã khuyên ở đoạn đầu của Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Anh em thân mến, như thân xác là một, mà có nhiều chi thể, và tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể".
Nếu chỉ sống vì Chúa và cho Chúa, trong Cộng đồng Dân Chúa là Giáo Hội như thế, thì từng phần tử trong Nhiệm Thể Giáo Hội mới có thể chung tiếng rằng: "Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi", như trong Thánh Vịnh 99 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan vơi lòng hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta và ta thuộc quyền sở hữu của Người. Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn thế hệ.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 31 - 13, 13
"Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 31-35
"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc".
Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Thành phần đạo theo (hơn là theo đạo) "giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố"...
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Luca không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, mà cách bài Phúc Âm hôm qua 12 câu trong cùng đoạn 7, và khúc 12 câu không được Giáo Hội chọn đọc này liên quan đến vấn nạn về bản thân Chúa Giêsu được môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra với Người và Người chẳng những đã gợi chứng cho họ biết về Người mà còn chứng thực về Vị Tiền Hô của Người nữa (xem Luca 7:18-30), trong đó có câu Thánh ký Luca nhận định như sau:
"Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông".
Bởi thế, thành phần được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay chính là "những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông", Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã làm phép rửa cho cả Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Thế nên, thành phần vốn bị Chúa Giêsu khẳng định và khiển trách là giả hình này đã được Chúa Giêsu sánh ví trong bài Phúc Âm hôm nay như thế này:
"Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: 'Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc'. Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: 'Người bị quỷ ám'. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: 'Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi'. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ở đây, qua nhận định của Chúa Giêsu về thành phần biệt phái và luật sĩ này, chúng ta thấy con người phải tuân hợp với chân lý, chứ chân lý không tuân hợp với con người, không theo con người, không như ý nghĩ thiển cận và ý muốn vị kỷ của con người, cho dù chân lý có thích ứng với con người để con người dễ lĩnh hội và chấp nhận.
Chính vì thành phần biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái tự phụ cho rằng mình thông luật và cẩn thận tuân giữ luật lệ nhờ đó trở nên công chính hơn ai hết, nên tưởng mình là đệ nhất thiên hạ về lề luật Chúa, ai cũng phải theo như ý họ nghĩ về lề luật một cách duy luật mới được, bằng không, vẫn bị họ cho là "bị quỉ ám", dù vị ấy có là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã từng là đèn soi chiếu cho Đấng đến sau ngài được họ tìm đến trước đó để truy nguyên về Đấng Thiên Sai (xem Gioan 5:35; Gioan 1:24-27), thậm chí còn bị họ cho là "mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", dù vị ấy có là Chúa Kitô, Đấng "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy, Giáo Hội Công giáo chẳng những bị quyền bính chính trị bách hại suốt giòng lịch sử của mình ở khắp nơi, mà còn thường trở thành mục tiêu chống đối của chính nội bộ Kitô hữu Công giáo của mình nữa, bao gồm cả hàng giáo phẩm lẫn giáo dân, theo chiều hướng cấp tiến hay bảo thủ của họ: Giáo Hội bị coi là quá chậm chạp trước những con mắt cấp tiến, hay ngược lại Giáo Hội bị coi là phá giới trước con mắt của thành phần bảo thủ nếu Giáo Hội cần phải thích nghi những gì tùy phụ theo thời cuộc để mưu ích hơn cho phần rỗi các linh hồn.
Chưa hết, thực tế phũ phàng cho thấy, theo chiều hướng canh tân cởi mở của Công Đồng Chung Vaticanô II, đặc biệt là về phụng vụ, đã xẩy ra tình trạng quá trớn bởi thành phần cấp tiến thừa thắng xông lên, Giáo Hội lại bị kêu trách là tại cởi mở, trong khi các nguyên tắc về cởi mở được Giáo Hội ấn định một cách đàng hoàng rõ ràng lại không được trung thực tuân giữ. Thế nhưng, cuối cùng mọi sự sẽ được sáng tỏ, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Tuy nhiên, thành phần "thế hệ này" được Chúa Giêsu sáng ví trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần thiên kiến, chủ quan, tất cả mọi sự phải theo ý mình hơn là được mạc khải, hơn là thực tế, chỉ có thể đáp ứng, uyển chuyển, thích ứng và canh tân, một khi biết yêu thương mà thôi. Vì yêu thương là khuynh hướng vươn ra, chấp nhận đối tượng và nên một với đối tượng.
Đó là lý do Thánh Phaolô đã nhắn nhủ và kêu gọi Giáo đoàn Corinto trong Bài Đọc 1 hôm nay như thế này: "Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả".
Thật vậy, bác ái làm cho chúng ta trưởng thành và tác hành như ngươờ lớn chứ không phải hay không còn là con nít nữa, như Thánh Phaolô đã nhận định trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ".
Chỉ cho tới lúc đó, thành phần người lớn sống đức ái ấy chẳng những sẽ chẳng còn phàn nàn than van rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc", trái lại, họ sẽ đồng thanh hòa âm cùng với các nhạc cụ khác ca lên tâm tình của Thánh Vịnh 32 ở Bài Đáp Ca hôm nay như thế này:
1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Ngày 14 tháng 9
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lễ Kính
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân số.
Trong những ngày ấy, dân chúng đi đường và mệt nhọc, nên nản chí, họ kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này". Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn".
Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 77, 1-2. 34-35. 36-37. 38
Ðáp: Chúng ta đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng: 1) Hỡi dân tôi, hãy nghe lời huấn dụ, hãy lắng tai nhận lấy những lời miệng tôi. Tôi sẽ xuất khẩu nói ra lời ngạn ngữ, sẽ trình bày những điều bí nhiệm của thời xưa. - Ðáp.
2) Khi Người sát phạt họ, bấy giờ họ kiếm tìm Người, và họ trở lại kiếm tìm Thiên Chúa. Họ nhớ lại rằng Thiên Chúa là Ðá Tảng của họ, và Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu chuộc họ. - Ðáp.
3) Nhưng rồi miệng họ đã phỉnh phờ, và lưỡi họ ăn nói sai ngoa với Người. Ðối với Người, lòng họ không ngay thẳng; họ cũng không trung thành giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.
4) Phần Người từ bi, tha lỗi và không huỷ diệt họ; nhiều khi Người đã tự kiềm chế căm hờn, và không để cho thịnh nộ hoàn toàn tuôn đổ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, Chúa Giêsu Kitô, tuy là [thân phận] Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 13-17
"Con Người phải bị treo lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
"Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
PHỤNG VỤ
GIỜ KINH LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Thay vì bài suy niệm, chúng ta hãy cùng với Giáo Hội chiêm ngưỡng và suy tôn Thánh Giá ở những giờ Kinh Phụng Vụ sau đây:
Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (năm 335).
Từ cõi chết phục sinh, Chúa Ki-tô đã chiến thắng sự chết. Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này.
Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Sầu chất nặng, thêm giấm chua mật đắng,
Đinh sắt, lưỡi đòng, gai nhọn đâm thâu,
Thân nát tan, và máu nước tuôn trào
Cho vũ trụ càn khôn được thanh tẩy !
Ta tin thật : muôn rừng xanh chẳng thấy
Một cây nào : cành, hoa, quả như ngươi !
Mấy mũi đinh nhẹ quá, thập tự ơi,
Sao mang nổi tấm hình hài vô giá ?
Rủ cành xuống, hỡi cây cao bóng cả,
Giãn thớ ra cho thân cứng hoá mềm
Như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm
Chờ Vua Cả đến đặt mình nằm xuống.
Ôi thập tự, chỉ ngươi là xứng đáng
Giá chuộc đời, đem cất giữ trong tim !
Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên,
Ngươi rước kẻ đắm chìm cho cặp bến.
Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện,
Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi
Đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người
Muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc !
Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô,
thánh giá nâng Người lên cao
Trích bài giảng của thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta.
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh giá ; thánh giá đã xua tan bóng tối và đem lại ánh sáng. Chúng ta mừng lễ thánh giá, và cùng với Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao. Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ trần gian và tội lỗi để được những của trên trời. Có được thánh giá là điều lớn lao biết mấy ! Ai có thánh giá là có một kho tàng. Tôi vừa dùng chữ kho tàng để chỉ điều người ta gọi, -và sự thật là như thế-, đó là của tốt nhất và đẹp nhất trong mọi của cải, vì trong đó, nhờ đó và vì đó mà tất cả điều cốt yếu của ơn cứu độ chúng ta được tạo lập và phục hồi.
Quả vậy, nếu không có thánh giá, thì Chúa Ki-tô cũng đã không bị đóng đinh, sự sống cũng đã không bị đóng đinh vào cây gỗ và nguồn mạch trường sinh, máu cùng nước thanh tẩy thế giới cũng không vọt ra từ bên sườn Người, văn khế tội nợ cũng đã không bị xé, chúng ta cũng đã không được đón nhận tự do, cũng không được hưởng nhờ cây ban sự sống, thiên đàng cũng đã không mở ra. Nếu không có thánh giá thì sự chết đã không bị quật ngã, hoả ngục cũng đã không bị tước đoạt vũ khí.
Vậy thánh giá vừa cao cả, vừa quý báu. Cao cả, vì thánh giá đã sinh ra nhiều ơn ích, bởi lẽ Chúa Ki-tô càng làm nhiều phép lạ và chịu đau khổ bao nhiêu thì Người lại càng chiến thắng lẫy lừng hơn bấy nhiêu. Quý báu, vì thánh giá vừa là sự đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa. Là sự đau khổ, bởi vì Người đã tự nguyện chết trên đó ; là chiến tích, bởi vì ma quỷ đã bị trọng thương và bị đánh bại ở đó, thần chết cũng đã bị thua cùng với nó ; then sắt hoả ngục bị đập tan và thánh giá trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao. Thánh giá là chén đắng Người khát khao, là bảng thâu tóm mọi cực hình Người đã chịu vì chúng ta. Thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, điều ấy, anh em hãy nghe chính Người nói : Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình. Vậy lạy Cha, giờ đây xin Cha tôn vinh Con bên Cha. Xin ban cho Con vinh quang mà Con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa. Điều ấy ám chỉ vinh quang Người sẽ được trên thánh giá.
Thánh giá nâng Chúa Ki-tô lên cao, anh em biết đó, điều ấy là do chính Người nói ra : Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi. Bạn thấy đó : thánh giá là vinh quang của Chúa Ki-tô, thánh giá nâng Người lên cao.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người. Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn. Chúng con cầu xin....
Ca Vịnh (Giờ Kinh Sáng: 3 câu mở và kết ở từng Ca Vịnh)
1- Đấng cam chịu khổ hình thập giá đã đập tan âm phủ, và đến ngày thứ ba đã sống lại đầy vinh hiển quyền năng.2- Ôi thập giá huy hoàng diễm phúc, thân xác Đấng nằm nghỉ trên ngươi, và máu đào Người đổ ra chan chứa sẽ chữa lành mọi thương tích phàm nhân.
3- Ôi thập giá cao sang rực rỡ, mang ơn cứu độ đến trần gian, ôi thập giá toàn thắng và hiển trị, thập giá xua đuổi mọi tội tình.
Thánh Ca Tin Mừng (Giờ Kinh Sáng: câu mở và kết)
Chúng con tôn thờ thánh giá Chúa, hát mừng Ngài sống lại hiển vinh; ấy chính vì bởi cây thập giá, niềm hân hoan tràn ngập địa cầu.
Lời cầu (Giờ Kinh Sáng)
Đức Ki-tô đã chết trên thập giá để chúng ta khỏi chết muôn đời. Vậy ta hãy tin tưởng cầu xin :
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa, xưa trong sa mạc, Chúa đã cứu dân Do-thái bằng dấu hiệu con rắn đồng, - nay xin dùng thập giá mà cứu chúng con khỏi vết thương tội lỗi.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa là Vị Cứu Tinh Chúa Cha ban tặng cho loài người, để ai tin vào Chúa thì không phải hư mất, - xin cho những người đang tìm kiếm Chúa được hưởng cuộc sống muôn đời.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa đã được Chúa Cha sai đến, không phải để lên án, nhưng là để cứu độ trần gian, - xin ban ơn đức tin cho thân bằng quyến thuộc chúng con, để họ được an vui hạnh phúc.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Chúa đã đến thắp lửa tin yêu trên toàn trái đất, và muốn cho lửa ấy bừng lên mãnh liệt, - xin cho chúng con biết sống theo sự thật và tìm đến cùng ánh sáng của Chúa.
Chúa đã chịu khổ hình thập giá, xin cứu độ chúng con.
Cờ Vua Cả tung bay phất phới,
Thánh giá Người chói lọi oai phong,
Ai ngờ chính Đấng Hoá Công
Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao.
Người chịu đóng đinh vào khổ giá,
Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,
Máu đào cùng nước chảy tuôn,
Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình.
Cây tô điểm đôi cành rực rỡ,
Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,
Lựa từ gốc rễ thanh cao,
Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi !
Phúc thay giá chuộc đời treo sẵn,
Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,
Thân hình Chúa Tể quyền oai
Cứu người dương thế khỏi tay tử thần.
Ôi Tế Phẩm, Tế Đàn cao sáng
Đã chung phần khổ nạn quang vinh,
Chúa Trời hằng sống dâng mình,
Chết đi để phúc trường sinh cho đời.
Lạy thánh giá, người người hy vọng,
Trong ngày này, mở rộng thiên ân :
Tôi trung phúc đức tăng phần,
Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi.
Xin tán tụng Ba Ngôi một Chúa
Chính là nguồn cứu độ trào dâng,
Nhờ ơn thập giá đỡ nâng,
Đoàn con khải thắng hát mừng thiên thu.
Ta hãy nhìn lên Đức Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, và ta hãy tha thiết khẩn cầu Người :
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa đã khước từ tất cả, mặc lấy thân phận nô lệ thấp hèn, và trở nên giống một kẻ phàm nhân, - xin cho mọi người trong Hội Thánh biết noi gương khiêm nhường của Chúa.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã tự hạ, sống phục tùng, đến nỗi bằng lòng chết, và chết trên thập giá, - xin cho các tín hữu cũng biết sống kiên nhẫn và tùng phục lẫn nhau.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã được siêu tôn, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, - xin cho các tín hữu Chúa được bền đỗ đến cùng.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Chúa đã được mọi nước mọi dân tuyên xưng là Đức Chúa, đồng vinh hiển với Chúa Cha, - xin cho những kẻ đã một lòng tin theo Chúa được vào hưởng vinh quang Nước Trời.
Chúa đã chịu treo cao trên thập giá, xin dẫn chúng con vào Nước Trời.
Suy Tôn Thánh Giá: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa
Trần
Văn Trí
Hằng
năm, Giáo Hội Công Giáo dành ngày 14 tháng 9 làm Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ
kính...
Thánh Giá là ảnh tượng được tôn kính, sùng mộ, rất thân thuộc trong đời sống
đạo đức của người Kitô hữu. Nhưng, dần dần vì quá quen người tín hữu có thể
giảm bớt hoặc mất đi sự quan tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, nhiều lúc, vì ảnh
hưởng của thói quen, chỉ được giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn
nhớ đến ý nghĩa cao quý về hồng ân châu báu Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế để lại
dưới thế trần.
Để góp phần cùng quý giáo hữu dọn lòng sốt sắng, tăng thêm tinh thần đạo
đức tôn vinh Thánh Giá một cách có ý thức trọn vẹn, chúng tôi xin giới thiệu
một ít học hỏi về Thánh Giá; về nghi lễ biểu dương Thánh Giá; về lễ Suy Tôn
Thánh Giá; về dấu Thánh Giá và mầu nhiệm Thập Giá.
Thánh Giá
Thập giá hay cái “giá” hình chữ “thập” mang xác Chúa Giêsu chịu đóng đinh và
chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên được gọi là Thánh Giá. Ngay từ
thời Giáo Hội tiên khởi vào thế kỷ thứ nhất, vì biết lòng mến mộ Thánh Giá
gia tăng lòng đạo đức, ảnh hưởng đến việc mở mang Kitô Giáo, các vua chúa
quan quyền, từ các hoàng đế Roma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi
cách quyết xóa bỏ niềm tin vào Thánh Giá. Thập giá được dùng để thử thách,
cưỡng bách người có đạo bước qua hoặc chà đạp trước khi lãnh án “tử vì đạo”.
Thâm độc nhất là hơn hai thế kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Kitô Giáo bị
đàn áp và bách hại kịch liệt. Vua Adriano ( 76 – 138 ), khi lên ngôi hoàng
đế Roma ( 117 – 138 ) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức
Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Rồi
khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần trên Mộ Thánh của Đức
Kitô và tìm mọi cách chôn giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không
cho giáo hữu tôn kính. Dù vậy, trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi
tiên phong trong các lễ nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu
Thế cũng như tôn vinh Thánh Giá.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời vua Constantino ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ),
làm hoàng đế Roma ( 306 – 337 ), đạo Chúa mới được tự do. Sau khi nhờ phép
lạ Thập Giá để được đại thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh
tự do tôn giáo, dẹp bỏ đàn áp bắt bớ Kitô Giáo. Ông trở lại đạo và bà
Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu
Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân
hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành
Giêrusalem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời
Chúa Cứu Thế.
Nhờ các nguồn thông tin có cơ sở, bà cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại
chân núi Calvario và đã lần lượt tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết
và Mai Táng Chúa Giêsu trong Mộ. Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây
Thập Giá: một của Đức Kitô và hai của hai tên trộm. Theo nghiên cứu về Thánh
địa, Linh Mục Jaud cho biết: Nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối
và một người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức
Giám Mục Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh
và gọi tên là Thánh Giá.
Nghi lễ biểu dương Thánh Giá
Sự
tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Giáo Hội Giêrusalem là nghi lễ
biểu dương Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh mà dần dần lan rộng trong Giáo
Hội Đông và Tây Phương. Sau đó, Đức Giáo Hoàng Gregorio ( 590 – 604 ) đưa
vào Phụng Vụ Roma như nghi lễ Thứ sáu Tuần Thánh ngày nay. Chính yếu là việc
biểu dương “Gỗ thập giá”, với lời kêu mời long trọng: Ecce lignum Crucis.
Xướng: Đây là gỗ Thánh Giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian. Đáp: Chúng ta
hãy đến thờ lạy. ( Ecce lignum crucis in quo salus mundi pependit. Venite
adoremus. )
Vì
thế, khi tham dự nghi lễ Thờ lạy Thánh Giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta
hãy nhớ đến ý chỉ chính của phụng vụ là tôn vinh “Gỗ thập giá” ( chứ không
phải Thánh Giá có hình Chúa Giêsu. )
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể,
khi đề cập đến Giáo Hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ
nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho
biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh
Giá.” Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và
vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có
ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất
hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh
thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào
hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335,
ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9
năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ,
chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh
lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ
tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14.9.629
như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 ( 531 – 579 ), đem
quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm
đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May
thay, lúc ấy có ông Heraclius ( 575 – 641 ), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi,
con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm
quyền ở Constantinopoli ngày 3.10.610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là
vua Heraclius 1 ( 610 – 641 ). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến
thắng đầu tiên ngày 12.12.627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon,
và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp
Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về
Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông
mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy
quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua:
“Xin hoàng đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang
mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn
của Chúa Giêsu Kitô.”
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ
Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với
gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người
chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi
được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số
người bị quỷ ám được giải thoát...” ( Viết theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud,
Vie des Saints, 1950 )
Từ
đó, tại Giêrusalem, Đức Giám Mục đã cử hành trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá
ngày 14 tháng 9 năm 629, mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng
9 ngày nay.
Dấu Thánh Giá
Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa nhất là suy gẫm và làm Dấu Thánh Giá cách sốt
sắng.
Sự tích Dấu Thánh Giá như sau: Điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng
đế Roma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến
với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino 1 ( 306 – 337 ) đã
nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán:
“Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh
giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng
quân Maxentio tại chân tường Roma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua
nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ mọi hình
thức bắt đạo và truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng
triều Roma.”
Làm dấu Thánh Giá
Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương.
Thông thường, khi làm Dấu Thánh Giá trên mình, người Kitô hữu đọc kinh:
“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Nhưng vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu
Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn
phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh cáo mình: “Xin Thiên Chúa
toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm Dấu
Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên trán,
trên môi miệng và trên ngực.
Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi –
Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”,
“Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi
khi đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”.
Trong Giáo Hội Chính Thống Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện
nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải với ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón
giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo
nhẫn và ngón út thì sát vào nhau, để chỉ sự kết hợp của “thiên tính và nhân
tính của Chúa Giêsu”.
Mầu nhiệm Thánh Giá
Giáo huấn của Hội Thánh rất phong phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn
của Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, suy tôn Thánh Giá chính là:
1.
Minh chứng Đức Tin qua gương Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo
trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên
Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại.” ( Giáo Lý 149 ).
2.
Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ
Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn thể nhà Ítraen, Phêrô quả quyết: Đức Giêsu mà
anh em đã treo trên Thập giá thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là
Đức Kitô.” ( Cv 2, 36; Giáo Lý 440 ).
3.
Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô bị
treo trên Thập Giá thu hút mọi người đến với Ngài” ( Ga 12, 32; Giáo Lý 160
), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau.” ( Giáo Lý 542 ).
4.
Tuyên rao Nước Chúa trị đến, như lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis”
Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước
Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát... Thiên Chúa đã cai trị từ trên
cây gỗ này” ( Giáo Lý 550 ).
5.
Thánh Giá là bằng chứng Chúa Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước
Trời. Thánh Phaolô Tông Đồ nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo
trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng
ta” ( Dt 9, 24; Giáo Lý 662 ).
Công Đồng Vaticano 2 ( 1962 – 1965 ) khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Kitô đã phục
sinh” ( GH ). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được
giải thoát” ( MV, 2 ).
Thánh Lễ: Mỗi lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên
Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1Cr 5, 7 ) thì công trình cứu chuộc
được thực hiện” ( GH, 3 ).
Ơn
cứu độ. “Nhờ Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại
cho con người ơn cứu độ và tự do” ( TD, 11 ).
(nguồn: webiste tinmung)
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 1-11
"Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không, anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như đứa con sinh non.
Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các đấng: song không phải tôi, mà là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các đấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 28
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm (c. 1a).
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bất chấp tất cả... miễn là đến được với chính Đấng có thể cứu chữa mình
Bài Đọc 1 hôm qua có câu: "Rõ
thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện
trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên Thần, rao
giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển", Bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, một phúc âm được viết cho dân ngoại và về
Lòng Thương Xót Chúa, tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về một Chúa Kitô bị
thành phần biệt phái và luật sĩ cho rằng: "mê
ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", bài
Phúc Âm ghi
lại một sự kiện như thể
chứng thực Chúa Giêsu quả là như thế, quả là Đấng muốn đến sống gần
gũi với thành phần tội lỗi để có thể cứu chuộc họ, để
nhờ đó họ có thể nhận
ra Lòng Thương Xót Chúa qua Người, ở nơi
Người và là
chính Người.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Luca cho thấy Chúa Giêsu đã gần gũi với một người đàn bà hư thân mất nết, một thứ gần gũi bất khả tránh ngoài ý muốn nhưng thật cần thiết, cho dù có thể trở thành gương mù cho người khác, như đã xẩy ra ở ngay trước mắt của vị chủ nhà biệt phái, đến độ gia chủ lấy làm ngạc nhiên khi chứng kiến thấy cảnh tượng, mà đối với thành phần coi mình là công chính bởi thông luật và duy luật, có vẻ quái gở này:
"Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: 'Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!'".
Nếu trong dụ ngôn vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, người cha nhân hậu trong dụ ngôn chẳng những tỏ lòng thương đứa con hoang đàng trở về mà còn thương cả đứa con cả ở nhà với ông mà lòng lại xa ông thế nào, thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chẳng những tỏ lòng thương cả đứa con hoang đàng là người phụ nữ đang hết lòng thống hối ăn năn trở về với Người mà còn tỏ lòng thương cả vị chủ nhà công chính nhưng lầm lạc đáng thương nữa. Đó là lý do trong khi gia chủ đang có tư tưởng ngờ vực về thế giá của Người là vị được ông ta trân trọng mời vào nhà và dùng bữa với ông, Chúa Giêsu đã kéo ông từ bộ óc trên đầu của ông xuống trái tim ở dưới lồng ngực của ông, bằng một dụ ngôn vấn nạn làm ông tự suy nghĩ và đã nhận định rất đúng:
"Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: 'Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông'. Simon thưa: 'Xin Thầy cứ nói'. 'Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?' Simon đáp: 'Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn'. Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông đã xét đoán đúng'".
Thế rồi, căn cứ vào câu trả lời chính xác theo tự nhiên của vị chủ nhà, Chúa Giêsu mới áp dụng vào trường hợp của người phụ nữ tội lỗi đang đụng chạm đến Người ở ngay trước mặt ông, một con người được kể như mắc nợ nhiều hơn ông, (chứ không phải là ông công chính theo chủ quan mà ông không mắc nợ gì với Chúa nữa), một vị gia chủ tuy cảm phục Người đã mời Người đến nhà dùng bữa, (một người biệt phái hiếm thấy đối với Chúa Giêsu vẫn là cái gai chướng mắt của thành phần biệt phái và luật sĩ, dù vị chủ nhà này chưa cảm mến Người bằng nghị viên biệt phái Nicôđêmô - Gioan 3:1-2), nhưng vẫn không tỏ ra hết lòng cung kính Người và mến yêu Người như chính con nợ phụ nữ mà trong đầu của ông đang có vấn đề với Chúa, như chính Người đã vạch ra cho ông thấy trong bài Phúc Âm:
"Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: 'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít'".
Thế rồi, trong khi chủ nhà đang bàng hoàng choáng váng bởi những nhận định rất chính xác về ông cũng như về người đàn bà tội lỗi đã có những hành động đúng như những gì vị đại khách nhắc lại và so sánh với thái độ cùng hành động của ông đối với cùng vị khách này, thì Chúa Giêsu đã phán với người đàn bà hư thân mất nết, như con nợ nhiều gấp 10 lần vị gia chủ ("hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi") rằng: "Tội con đã được tha rồi".
Lời Người phán truyền tha tội này không ngờ lại gây phản ứng dữ dội hơn nữa, lần này không phải chỉ riêng vị gia chủ mà bao gồm cả những khách được mời (chắc cùng thành phần biệt phái với chủ nhà) nữa. Bởi thế, "những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: 'Ông này là ai mà lại tha tội được?'". Họ nghĩ cũng đúng thôi, vì trước mắt họ thì Chúa Kitô chỉ là một nhân vật Giêsu Nazarét thuần túy, chứ chẳng phải thần thánh gì, chẳng phải là Con Thiên Chúa, chẳng phải là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền tha tội cho loài người.
Tuy nhiên, trong khi con mắt duy luật và cao ngạo của thành phần biệt phái này không nhận ra vị thượng khách ở giữa họ như thế thì người phụ nữ lăng loàn tội lỗi đáng kinh tởm và xa lánh đối với họ lại nhận ra Người, Đấng có quyền tha tội lỗi cho nàng, nên nàng mới bày tỏ những cử chỉ ăn năn thống hối tuyệt vời nhưng đầy ngứa mắt như vậy, thậm chí nàng cứ đến với Người bất chấp các con mắt khinh người của nhóm khách biệt phái: "Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm...".
Chính vì hành động đầy tin tưởng hết sức can đảm lạ lùng hiếm có này của người phụ nữ lạ mặt "tội lỗi trong thành" này mà cuối cùng Chúa Giêsu đã nói với nàng rằng: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Kinh nghiệm tu đức và mục vụ cũng cho thấy, có những tâm hồn tội lỗi lâu năm chưa xưng tội, hay đúng hơn không dám xưng tội, vì chỉ sợ cứ sa đi ngã lại, hay vì thấy mình tội lỗi chất chồng và càng chồng chất tội lỗi càng khó trở về với Chúa, thậm chí còn nản chí mất lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn theo dõi và tìm kiếm từng con chiên lạc đã có cách cứu độ của Ngài. Bởi thế, vào thời điểm ấn định, trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, có những tâm hồn đã trở về với Ngài, đã xưng tội, cho dù vào trong giờ lâm tử, và sau đó họ cảm thấy họ được giải thoát và được tràn đầy bình an, một thứ bình an họ không thể nào có được khi họ đang sống trong tự do theo ý họ một cách gian ác lỗi lầm, một thứ bình an thế gian mà họ đã từng mù quáng theo đuổi và hoan hưởng không thể nào ban cho họ được (xem Gioan 14:27).
Bởi thế, kinh nghiệm tu đức còn cho thấy, có trở về với Chúa, có chạm đến Chúa nơi Bí Tích Hòa Giải và sau đó nơi Bí Tích Thánh Thể, con người yếu đuối với có sức để sống đức tin và đứa ái, bằng không, càng ngày sẽ càng bê bối và lún sâu xuống bùn lầy tội lỗi, đến độ nếu không có phép lạ không thể nào thoát khỏi vùng lầy tội lỗi ấy nữa. Nếu người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay không dám đến gần Chúa và thậm chí dám giơ bàn tay nhơ nhớp đã từng làm đĩ chạm đến Chúa, thì chắc nàng không bao giờ có thể được thanh tẩy và thậm chí được biến đổi (như chúng ta sẽ thấy trong Bài Phúc Âm ngày mai).
Lòng thương xót Chúa tỏ ra với người phụ nữ tội lỗi trong thành ở Bài Phúc Âm hôm nay thế nào, một nữ tội nhân đã cảm nhận thấy lòng thương xót Chúa và đã bất chấp tất cả để đến với Đấng có thể cứu chị, thì lòng thương xót Chúa cũng tỏ ra với chàng Saule biệt phái rất sùng bái Do Thái giáo của mình, đến độ đã bất chấp bất cứ một đường lối mới hay tôn giáo mới nào xuất hiện giữa Do Thái giáo, nhưng lại là một nhân vật được lòng thương xót Chúa tuyển chọn và biến đổi từ kẻ bách đạo đến vị tông đồ giảng đạo có thể nói hơn các tông đồ khác.
Chính ngài đã cảm thấy thân phận của ngài và tất cả đều nhờ lòng thương xót Chúa nơi ngài thôi, như ngài đã tâm sự với giáo đoàn Corintô trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không, anh em đã tin cách vô ích.... Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các đấng: song không phải tôi, mà là ơn của Thiên Chúa ở với tôi".
Chắc chắn người phụ nữ tội lỗi trong thành trong Bài Phúc Âm cũng như vị tông đồ sinh non trong Bài Đọc 1 hôm nay, đều cảm nhận thấy đúng như cảm nhận của Thánh Vịnh 117 ở Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở".
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3) Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài.
Ngày 15 tháng 9
Lễ Ðức Mẹ Sầu Bi
Lễ Nhớ
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Cuộc tử đạo của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta biết được là nhờ lời tiên báo của ông già Si-mê-ôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giê-su, ông già nói rằng : Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà -ông nói với Đức Ma-ri-a- bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu.
Vậy lạy Mẹ diễm phúc, một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng, Chúa Giê-su, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ ; sau khi trút hơi thở cuối cùng, Người đã không bị lưỡi gươm tàn bạo đâm thấu lòng. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nó đã mở sườn Người ra ; nhưng chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn của Người, chắc chắn không còn đó nữa, nhưng tâm hồn của Mẹ không tránh đâu được. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng con thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác. Câu : Thưa Bà, đây là con Bà, đối với Mẹ, chẳng còn hơn một lưỡi gươm và đã chẳng đâm thâu lòng Mẹ cùng đạt tới chỗ phân cách tâm với linh sao ? Ôi cuộc trao đổi kỳ lạ ! Thánh Gio-an đã được trao cho Mẹ để thế chỗ Chúa Giê-su. Người tôi tớ thế chỗ chủ, người môn đệ thế chỗ thầy, con ông Dê-bê-đê thế chỗ Con Thiên Chúa, một người phàm thay vì Thiên Chúa thật. Làm sao nghe lời này, lòng Mẹ đầy âu yếm không bị đâm thâu, trong lúc chúng con, dù lòng chai dạ đá mà chỉ nhớ tới lời đó thôi, cũng cảm thấy lòng mình tan nát ?
Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Ma-ri-a được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ quên lời thánh Phao-lô nói rằng một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Ma-ri-a. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu có kẻ chẳng nói : Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giê-su phải chết sao ? - Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao ? - Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không ? - Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai ? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giê-su, Con của Người chịu thương khó ? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao ? Chính tình thương đã khiến Chúa Ki-tô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Ma-ri-a cùng chịu thương khó với Con của Người.
Mẹ Maria liên kết với Chúa Giêsu trên Thập Giá
ĐTC Gioan Phaolô II - Loạt 70 Bài Giáo Lý Thánh Mẫu: Bài 3 – 25/10/1995
1. Khi nói rằng “Trinh Nữ Maria… được nhận biết và tôn kính như là Người Mẹ thực sự của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Chuộc” (Lumen Gentium, 53), Công Đồng tỏ ra chú ý tới mối liên kết giữa vai trò làm mẹ của Mẹ Maria và việc Cứu Chuộc.
Sau khi nhận thức được vai trò làm từ mẫu của Mẹ Maria, vị được tôn kính nơi giáo huấn và việc tôn thờ của các thế kỷ đầu như là Người Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu Kitô, và vì thế như là Người Mẹ của Thiên Chúa, vào Thời Trung Cổ, lòng đạo đức của Giáo Hội và việc suy tư thần học nêu lên vấn đề Mẹ cộng tác vào công việc của Chúa Cứu Thế.
Việc trì hoãn này được thấy nơi sự kiện là các nỗ lực của những vị Giáo Phụ Hội Thánh cũng như của các Công Đồng Chung ban đầu, đã tập trung vào căn tính của Chúa Kitô là những gì cần gạt qua một bên những khía cạnh khác của tín điều. Sự thật được mạc khải chỉ được tỏ lộ dần dần tất cả mọi phong phú của nó. Qua các thế kỷ, khoa Thánh Mẫu Học bao giờ cũng bắt nguồn từ khoa Kitô Học. Vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ Maria tự nó được Công Đồng Chung Êphêsô đã cống bố chính yếu là để khẳng định duy nhất tính nơi ngôi vị của Chúa Kitô. Cũng thế, đã có một kiến thức sâu xa hơn về sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ.
2. Vào cuối thế kỷ thứ hai, Thánh Irenaeus, người môn đệ của Thánh Polycarp, đã cho thấy việc góp phần của Mẹ Maria vào công cuộc cứu độ. Ngài đã hiểu được giá trị của việc Mẹ Maria ưng thuận trong lúc Truyền Tin, khi nhìn nhận một kết quả phúc lợi trên định mệnh của nhân loại ở nơi đức tuân phục và niềm tin tưởng của vị Trinh Nữ Nazarét này đối với sứ điệp của thiên thần là những gì hoàn toàn tương phản với cái bất tuân và hoài nghi của Evà. Thật vậy, như Evà đã gây ra sự chết thế nào thì Mẹ Maria, bằng tiếng “xin vâng” của mình, đã trở nên “một căn nguyên cứu độ” cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể nhân loại (cf. Adv. Haer., III, 22, 4; SC 211, 441). Thế nhưng, điều khẳng định này đã không được các vị Giáo Phụ khác trong Hội Thánh khai triển một cách nhất trí và hệ thống.
Mẹ Maria trở nên Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại
Thay vào đó, tín lý này đã được trình bày một cách hệ thống hóa lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ 10 trong cuốn Đời Sống của Mẹ Maria của một đan sĩ Byzantine là John the Geo meter. Ở tập sách này Mẹ maria liên kết với Chúa Kitô trong toàn thể công cuộc Cứu Chuộc, thông phần vào, theo dự án của Thiên Chúa, Thập Giá và khỗ đau vì phần rỗi của chúng ta. Mẹ vẫn hiệp nhất với Con Mẹ “ở hết mọi việc làm, thái độ và ước muốn” (cf. Life of Mary, Bol. 196, f. 122 v.). Việc liên kết của Mẹ Maria với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu phát xuất từ tình yêu Mẫu Thân của Mẹ, một tình yêu được tác động bởi ân sủng, thứ ân sủng cban cho nó một quyền năng cao cả hơn: tình yêu thoát khỏi đam mê chứng tỏ mình là lòng cảm thương hết sức (cf. ibid., Bol. 196, f. 123 v.).
3. Ở Tây phương, Thánh Bênađô, vị qua đời vào năm 1153, đã hướng về Mẹ Maria và nhận định về việc hiến dâng Chúa Giêsu trong đền thờ như thế này: “Hỡi Trinh Nữ bất khả xâm phạm, hãy hiến dâng Con Mẹ, và dâng hoa trái của lòng Mẹ cho Chúa. Vì việc chúng con giao hòa vối tất cả mọi người, xin Mẹ hãy hiến dâng tế vật thiên đình hài lòng Thiên Chúa” (Serm. 3 in Purif., 2: PL 183, 370).
Một người môn đệ và là bạn của Thánh Bênađô là Armold ở Chartres, đã đặc biệt làm sáng tỏ về việc Mẹ Maria hiến dâng nơi hy tế Canvê. Ông phân biệt nơi Thập Giá “hai bàn thờ: một ở nơi tấm lòng của Mẹ Maria, và một nơi thân xác của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã hy sinh xác thịt của mình, Mẹ Maria đã hy sinh linh hồn của Mẹ”. Mẹ Maria đã hy sinh bản thân mình một cách linh thiêng trong mối hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, và van nài phần rỗi cho thế giới: “Những gì người mẹ yêu cầu thì Người Con chấp nhận và Người Cha ban phát” (cf. De septem verbis Domini in cruce, 3: PL 189, 1694).
4. Đồng thời, nơi việc tôn thờ và lòng đạo hạnh của Kitô giáo, việc suy niệm chiêm ngắm về ‘lòng thương xót” của Mẹ Maria đã khai triển, đạt đến tuyệt đỉnh sâu sắc nơi các hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Việc Mẹ Maria thông dự vào thảm kịch Thập Giá làm cho biến cố này có tính chất nhân bản sâu xa hơn và giúp cho tín hữu tiến vào mầu nhiệm này, đó là lòng cảm thương của Mẹ Maria tỏ hiện rõ ràng hơn Cuộc Khổ Nạn của Người Con.
Nhờ tham phần vào việc cứu chuộc của Chúa Kitô mà vai trò làm mẹ thiêng liêng và phổ quát của Mẹ Maria cũng được nhìn nhận. Ở Đông phương, John the Geometer đã nói cùng Mẹ Maria rằng: “Mẹ là Mẹ của chúng con”. Khi dâng lời tạ ơn Mẹ Maria “về những sầu thương và khổ đau Mẹ đã chịu vì chúng ta, ông đã cho thấy cảm tình từ mẫu và mối quan tâm mẫu thân của Mẹ đối với tất cả những ai được cứu độ” (cf. Farewell Discourse on the Dormition of Our Most Glorious Lady, Mother of God, in A. Wenger, L'Assomption de la Très Sainte Vierge dans la tradition byzantine, p. 407).
Ở cả Tây phương nữa, tín lý về vai trò làm mẹ thiêng liêng này đã được Thánh Anselm khai triển, vị chủ trương rằng “Mẹ là người mẹ… của việc hòa giải và thành phần được giải hòa, mẹ của việc cứu độ và của thành phần được cứu độ” (cf. Oratio 52, 8: PL 158, 957 A).
Mẹ Maria không ngừng được tôn kính như là Mẹ của Thiên Chúa, thế nhưng sự kiện Mẹ là Mẹ của chúng ta là những gì cống hiến cho vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ một khía cạnh mới mở ra trong chúng ta con đường tiến đến chỗ hiệp thông sâu xa hơn nữa với Mẹ.
5. Vai trò làm mẹ của Mẹ Maria đối với chúng ta chẳng những bao gồm một mối liên kết về tình cảm: vì các công nghiệp của Mẹ cùng với việc chuyển cầu của Mẹ được Mẹ góp phần một cách hiệu nghiệm vào việc hạ sinh thiêng liêng của chúng ta cũng như vào việc tiến triển đời sống ân sủng trong chúng ta. Đó là lý do tại sao Mẹ Maria được gọi là “Mẹ ân sủng” Và “Mẹ sự sống”.
Mẹ của Sự Sống mà từ đó mọi người được sự sống
Tước hiệu “Mẹ của sự sống”, một tước hiệu được Thánh Gregory ở Nyssa sử dụng, được giải thích như sau bởi Chân Phước Guerric ở Igny, vị qua đời vào năm 1157: “Mẹ là Mẹ của Sự Sống mà từ đó tất cả mọi người có được sự sống: trong việc tự mình hạ sinh sự sống này, một cách nào đó Mẹ tái sinh tất cả những ai đã sống sự sống ấy. Chỉ có một vị được hạ sinh, còn tất cả chúng ta đều được tái sinh” (In Assumpt. I, 2: PL 185, 188).
Một bản văn hồi thế kỷ 13 là Mariale đã sử dụng một hình ảnh sống động để ghép cho việc tái sinh này “cảnh quằn quại sinh con” ở Canvê, nhờ đó “Mẹ đã trở nên người mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại”. Thật vậy, “nơi cung lòng tinh sạch của mình, bằng lòng xót thương Mẹ đã thụ thai con cái của Giáo Hội” (Q. 29, par.3).
6. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nói rằng Mẹ Maria “một cách hoàn toàn chuyên biệt đồng tác vào công cuộc của Chúa Cứu Thế”, đã kết luận rằng: “vì lý do ấy, Mẹ là một người mẹ đối với chúng ta trong lãnh vực ân sủng” (Lumen Gentium , 61), như thế khẳng định việc Giáo Hội nhận thức rằng Mẹ Maria ở bên Con Mẹ như là Người Mẹ thiêng liêng của toàn thể nhân loại.
Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta: sự thật an ủi này, được cống hiến cho chúng ta một cách rõ ràng và sâu xa hơn bởi tình yêu và niềm tin của Giáo Hội, đã bảo trì và đang nâng đỡ đời sống thiêng liêng của tất cả chúng ta, và phấn khích chúng ta, ngay cả trong khi đau khổ, hãy tin tưởng và hy vọng.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch từ L'Osservatore Romano Weekly Edition in English 1/11/1995, trang 11.
Xin xem Truyện Đời của Mẹ trong Thần Đô Huyền Nhiệm về biến cố Mẹ:
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 12-20
"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô giá trị".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu chúng tôi rao giảng rằng Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, làm sao trong anh em lại có người dám nói: không có vấn đề kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Mà nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lời giảng của chúng tôi sẽ nên trống rỗng, và Ðức Tin của anh em cũng ra trống rỗng. Vì chưng nếu kẻ chết không sống lại, thì chúng tôi bị coi là những chứng nhân giả dối về Thiên Chúa, vì lẽ chúng tôi đã làm chứng nghịch với Thiên Chúa rằng: Chúa đã phục sinh Ðức Kitô, khi mà Chúa đã không làm cho Người sống lại. Bởi chưng nếu những kẻ chết không sống lại, thì Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Và nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô giá trị, vì anh em vẫn còn ở trong tội lỗi. Vậy ngay cả những người đã an giấc trong Ðức Kitô cũng hư vong. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong đời sống hiện tại mà thôi, thì chúng ta là những người đáng thương hại nhất.
Nhưng kỳ thực Ðức Kitô đã sống lại, Người là đầu mùa những người đã an giấc ngàn thu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 16, 1. 6-7. 8b và 15
Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra từ cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin ghé tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương, những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài. - Ðáp.
3) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 1-3
"Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Người nữ môn đệ tội lỗi của Chúa Kitô
Bài Phúc Âm hôm nay, mở đầu đoạn 8, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 7. Tức là, sau sự kiện Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simon mời đến dùng bữa với ông và bạn hữu của ông, ở đó Người đã tha thứ cho một người phụ nữ tội lỗi hết lòng ăn năn thống hối đến với Người.
Nếu bài Phúc Âm hôm qua, người phụ nữ lạ mặt như vô danh tiểu tốt này chỉ được Thánh ký Luca tiết lộ một chút xíu ở ngay đầu bài Phúc Âm đó là "một người đàn bà tội lỗi trong thành", thì hình như người phụ nữ tội lỗi ấy đã trở thành một (vẫn tiếp tục vô danh) trong những nữ môn đệ của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Phải chăng người phụ nữ tội lỗi tỏ lòng ăn năn thống hối ấy chẳng những đã từ bỏ đời sống tội lỗi mà còn dấn thân theo phục vụ Đấng đã vô cùng từ bi nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình nữa, qua chi tiết được Thánh ký Luca cho biết là: "Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám".
Suy diễn này có thể đúng: người phụ nữ tội lỗi đã "đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm" và đã được Người tha thứ: "Tội lỗi con đã được tha... Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an", trong bài Phúc Âm hôm qua, chính là "Maria cũng gọi là Mađalêna" trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, căn cứ vào hai chi tiết trong 2 phúc âm khác, chúng ta có thể thấy được điều này. Trước hết, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Thánh Ký đã chú thích ở trong ngoặc đơn về Maria là chị em của Matta và Lazarô như sau: “(Maria có Lazarô bị bệnh này là người đã xức dầu cho Chúa bằng dầu thơm và lau khô chân Người bằng tóc của mình)” (11:2), đúng như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm qua.
Trong Phúc Âm của Thánh ký Marco, ở đoạn liệt kê thứ tự các lần Chúa Kitô phục sinh hiện ra, mà người đầu tiên được vị Thánh ký này liệt kê là “Maria Magdalene”, một nhân vật nữ đã được thánh ký ghi chú thêm một cách kỹ lưỡng như sau: “Người trước hết đã hiện ra với Maria Magdalene là người được Người trừ cho khỏi 7 quỉ” (16:9), đúng như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tóm lại, căn cứ vào các đoạn Phúc Âm được trích dẫn liên quan đến nhân vật mang tên Maria và Maria Magdalene, có thể kết luận rằng cả hai danh xưng này chỉ là một nữ nhân vật duy nhất, đó là Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên được Giáo Hội mừng kính hằng năm vào ngày 22/7.
Vậy Maria Magdalene cũng là Maria chị em của Matta và Lazarô ở Bêtania, có thể là một con người đã bỏ nhà đi hoang sống đời tội lỗi (x Lk 7:37) ở Magdala (?), nhưng đã thống hối bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung của mình (x Lk 7:47), “đã chọn phần tốt hơn” là lắng nghe lời Chúa (x Lk 10:42), đã khóc thương Lazarô khiến Chúa cũng cảm thấy mủi lòng trước nước mắt của chị (x Jn 11:33), và đã trung kiên theo Chúa (còn hơn cả đa số các vị tông đồ) cho tới khi đứng dưới chân thập giá Chúa với Mẹ Maria và Thánh Tông Đồ Gioan (x Jn 19:25), nhờ đó chị thậm chí còn diễm phúc trở thành con người đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh ưu tuyển hiện ra (x Mk 16:9), trước cả các thánh tông đồ, và Người đã sai chị đi loan báo tin mừng phục sinh về Người cho chính các tông đồ nữa (x Jn 20:17)!
Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên đã trở thành "tông đồ của các tông đồ", như Giáo Hội, qua Đức Thánh Cha Phanxicô vào năm 2016, đã tuyên nhận và vì thế ngài đã nâng bậc lễ của chị lên ngang hàng lễ kính với các vị tông đồ. Chính bản thân chị đã được Chúa hồi sinh, và thậm chí còn biến chị trở thành "tông đồ của các tông đồ" khi sai chị đi loan báo cho chính các tông đồ tin mừng Người phục sinh từ trong kẻ chết. Câu Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Corintô ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em cũng vô giá trị, vì anh em vẫn còn ở trong tội lỗi" hoàn toàn hợp với trường hợp của chị, người đã không còn sống trong tội lỗi, nhưng bằng lòng tin của mình: "Tôi đã thấy Chúa" (Gioan 21:18).
Đúng thế, chị chẳng khác gì như được tỉnh giấc từ một cuộc đời mê lầm tội lỗi, tỉnh giấc từ khi theo Chúa, như được bài Phúc Âm hôm nay nói tới, đúng hơn, từ khi chị bất ngờ gặp được Chúa, có thể là vào lần Chúa đồng bàn tiệc với những người thu thuế và tội lỗi ở nhà của viên thu thuế Levi cũng là Mathêu (xem Mathêu 9:10), trong đó có chị, và nhờ đó, chính tai chị đã nghe thấy Chúa Kitô nhân lành đã công khai nói với thành phần biệt phái công chính giả hình hôm ấy rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: 'Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi'." (Mathêu 9:12-13)
Vì chị đã hoàn toàn tỉnh giấc từ đó, cho đến khi tận mắt của chị "đã thấy Chúa", mà vì thế nên tâm tình của Thánh Vịnh 16 ở Bài Đáp Ca hôm nay, có thể nói, là tâm tình của chị, nhất là câu họa: "Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa".
1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra từ cặp môi chân thành!
2) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin ghé tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Ðấng giải thoát khỏi bọn đối phương, những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài.
3) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa.
Thánh Cornêliô, Giáo Hoàng (+ 253) &
Thánh Cyprianô, Giám Mục Tử Ðạo (200-258)
(16/9)
Đaminh Maria cao tấn tĩnh - tổng hợp từ các nguồn tài liệu khác nhau: Đi Tìm Chân Lý, Giáo Phận Phú Cường, Lời Chúa Dòng Don Bosco, nhất là phụng vụ giờ kinh sách ngày 16/9 của Giáo Hội
1. Lược Sử.
Thánh Côrnêliô sinh tại Rôma, là người có một lối sống trong sạch thuần khiết và khiêm nhường sâu xa không gì có thể trách cứ được. Sau khi giữ các phận vụ trong Giáo hội và được mọi người thán phục, ngài lên ngôi Thánh Phêrô, kế vị Đức Giáo Hoàng Fabianô, Đấng đã chết vì đạo 15 tháng trước trong cuộc bách hại của Đêciô.
Thật vậy, sau khi thánh Fabianô tử vì đạo thì Giáo hội thời bấy giờ không có Giáo Hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Cyprianô, một người bạn của Cornêliô, viết lại rằng Cornêliô được chọn làm Giáo Hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí.”
Nhưng lên ngôi ít lâu, ngài đã phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả. Nôvatianô là một linh mục đầy tham vọng, được một linh mục Phi châu là Nôvatô hậu thuẫn. Họ nổi tiếng về triết học và tài lợi khẩu, đến nỗi có người than phiền vì đã chọn lầm Đức Côrnêliô làm Giáo Hoàng mà không chọn Nôvatianô. Hai người nổi loạn đã nỗ lực tuyên truyền và lôi kéo được một số tín hữu và cả một số giám mục đi theo. Ba giám mục nước Ý đã đặt tay tấn phong cho Nôvatianô làm giáo hoàng. Nôvatianô liền viết thư cho nhiều Giám mục chống lại Đức Giáo Hoàng Côrnêliô, trách cứ ngài quá dễ dàng tiếp nhận lại những người đã dâng hương tế thần.
Thánh Côrnêliô đã dùng cả con đường hiền dịu lẫn cứng rắn mà vẫn không lôi kéo được hai con người bội phản trở lại đường ngay. Nhưng nhờ các nhân đức của một vị tông đồ chân chính, thánh Cornêliô đã chinh phục được nhiều Giám Mục hợp tác với Ngài. Chính thánh Cyprianô, sau khi biết rõ việc tuyển chọn hợp pháp của thánh Côrnêliô đã cộng tác với ngài hết mình để mang lại sự hợp nhất cho Giáo hội. Những sắc lệnh kết án Nôvatô và Nôvatianô được một công đồng ở Rôma chuẩn nhận.
Đúng thế, phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả, trong thời gian hai năm làm Giáo Hoàng, thánh Cornêliô còn phải đương đầu với vấn đề lớn nhất thời bấy giờ có liên quan đến Bí tích Thống hối, và nhất là vấn đề tái gia nhập Giáo hội của các Kitô hữu đã chối đạo trong thời kỳ bị bách hại. Cả hai thái cực đều bị lên án. Ðức Cyprianô, Giám mục đứng đầu Kitô giáo Phi châu, yêu cầu Đức Giáo Hoàng xác định lập trường mà ngài chủ trương, đó là người bội giáo chỉ có thể hòa giải duy bởi quyết định của vị Giám mục (trái với thông lệ thật dễ dãi trong việc phục hồi những người đã chối đạo do Novatô chủ trương).
Ở Rôma, đức Cornêliô lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau cuộc bầu Giáo Hoàng, một linh mục tên Novatianô (một trong những người điều hành Giáo hội) lo liệu để mình được tấn phong làm Giám mục Rôma – Giáo Hoàng đối lập đầu tiên chống lại Giáo Hoàng chính thống. Novatianô chủ trương rằng, không những người bội giáo, mà ngay cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay người tái hôn thì Giáo hội cũng không có quyền tha tội! Ðức Cornêliô được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo hội (nhất là Ðức Giám mục Cyprianô ở Phi châu) trong việc lên án chủ thuyết của Novatianô, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Ðức Cornêliô triệu tập công đồng Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được phục hồi lại với Giáo hội qua “phương dược Bí tích thống hối” thông thường.
Tình bạn giữa Đức Giáo Hoàng Cornêliô với Đức Giám mục Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một đối thủ của Cyprianô đưa ra những lời tố cáo đức Ciprianô. Nhưng vấn đề sau đó được làm sáng tỏ.
Một tài liệu từ thời đức Cornêliô cho thấy mức độ tổ chức của Giáo hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba: Giáo hội Rôma khi ấy gồm 46 linh mục, bảy phó tế, bảy trợ phó tế. Số Kitô hữu được ước lượng khoảng 50,000 người.
Khi Gallô mở lại cuộc bắt đạo, Đức Côrnêliô bị tống giam. Ngài bị đày tới Contumcella, bây giờ là Civita Vecchina. Trong một lá thư chào mừng, thánh Côrnêliô viết:
- Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong những ngày bị bách hại này, nâng đỡ nhau bằng tình bác ái. Nếu ai trong chúng ta được Thiên Chúa ban đặc ân cho qua đời trước, chớ gì tình thân hữu vẫn tiếp tục trước mặt Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta tiếp tục thúc đẩy Chúa dủ tình thương xót anh chị em của chúng ta.
Quả thật, thánh Côrnêliô đã chẳng sống lâu. Ngài đã qua đời trong lúc bị đi đày tại Contumsenla, ngày 14 tháng 9 năm 253 và được an táng tại đó. Sau này thi hài cuả ngài được dời về nghĩa trang thánh Callistô.
Tình bằng hữu của hai thánh Côrnêliô và Cyprianô vẫn còn sống mãi cho tới ngày nay, và Giáo hội kính nhớ các ngài vào cùng một ngày.
Thánh Cyprianô là bạn thân của Đức Cornêliô nên được mừng lễ cùng ngày với nhau. Ngài sinh tại Carthage năm 210, trong một gia đình ngoại đạo.
Được hấp thụ nền giáo dục cao, lại là nhà hùng biện nổi tiếng, ngài đã trở thành Kitô hữu khi đã trưởng thành. Ngài phân chia của cải cho người nghèo, tạo nên sự kinh ngạc của các công dân bạn hữu ngài khi ngài thực hiện lời khấn sống khiết tịnh trước khi chịu rửa tội.
Cyprianô than phiền rằng thời gian bình an mà Hội Thánh được vui hưởng đã làm giảm yếu tinh thần của nhiều người Kitô hữu và mở cửa cho những người trở lại đạo mà không có một tinh thần đức tin đích thực. Khi cuộc bách đạo của Dexianô bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng từ bỏ Hội Thánh. Chính việc tái hội nhập của họ vào Hội Thánh tạo nên những cuộc tranh luận to tát trong thế kỷ thứ ba, và giúp cho Hội Thánh tiến bộ trong sự hiểu biết của mình liên quan đến Bí tích Thống hối.
Trong nạn dịch tại Carthage, Giám mục Cyprianô thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ mọi người, bao gồm cả những kẻ thù và những kẻ bách đạo.
Là bạn của Đức Giáo Hoàng Cornêliô, nhưng Đức Giám mục Cyprinanô lại chống lại vị giáo hoàng kế tiếp là Stêphanô. Ngài cùng với các giám mục Phi Châu khác không muốn nhìn nhận hiệu lực và sự chính đáng của phép Rửa tội do những người lạc giáo và ly giáo cử hành. Đó không phải là quan niệm của Hội Thánh toàn cầu, nhưng Cyprinô vẫn không khiếp sợ cho dù bị đe dọa vạ tuyệt thông.
Ngài bị hoàng đế đem đi lưu đày nhưng sau đó được gọi về để chịu xét xử. Ngài từ chối rời thành phố, nhấn mạnh rằng dân của ngài phải được chứng kiến cuộc tử đạo của ngài.
Việc chính đáng như thế, khỏi cần phải suy nghĩ
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 16/9)
Trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Síp-ri-a-nô.
Sáng ngày 14 tháng 9, một đám rất đông dân chúng tụ họp tại quảng trường Xét-tô, theo lệnh của quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô. Viên quan này truyền lệnh phải điệu thánh Síp-ri-a-nô ra trước mặt ông ngay trong ngày, khi ông ngồi xử tại tiền đường Xau-si-ô-lô. Khi giám mục Síp-ri-a-nô bị điệu đến, quan kinh lược hỏi : “Ông có phải là Ta-si-ô Síp-ri-a-nô không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.”
Quan kinh lược nói : “Ông có phải là lãnh đạo đám người có đầu óc phạm thượng đó không ?” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Chính tôi.” Quan kinh lược lại nói : “Các hoàng đế chí tôn đã truyền cho ông phải tế thần.” - Giám mục Síp-ri-a-nô trả lời : “Tôi không tế.” Quan Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô nói : “Ông nghĩ kỹ đi !” - Thánh Síp-ri-a-nô trả lời : “Quan được lệnh làm gì thì cứ làm đi. Trong một việc chính đáng như thế này, khỏi cần suy nghĩ nữa.”
Khi bàn hỏi với hội đồng, quan kinh lược quyết định tuyên án. Quan buộc lòng phải nói như sau : “Ông đã sống theo học thuyết phạm thượng này từ lâu rồi, và ông đã quy tụ nhiều người để mưu đồ làm tội ác, ông đã đứng lên đối địch với các thần Rô-ma và các nghi thức kính thần ; các hoàng đế mộ đạo và chí thánh của chúng ta là Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô ; ngay cả Va-lê-ri-a-nô, vị Xê-da chí tôn, cũng đã không thể làm cho ông trở lại thờ cúng như các ngài. Ông bị bắt vì đã chủ mưu và gieo rắc các tội ác khả ố, nên ông sẽ là bài học cho những kẻ đã liên kết với ông để làm tội ác. Máu của ông sẽ làm chứng cho sự nghiêm minh của pháp luật.” Nói xong, quan đọc án quyết ghi trên một tấm thẻ nhỏ : “Chúng tôi ra lệnh xử trảm Ta-si-ô Síp-ri-a-nô.” Giám mục Síp-ri-a-nô nói : “Tạ ơn Chúa.”
Sau khi nghe bản án, đám đông anh em tín hữu hô lên : “Chúng tôi xin cùng được xử trảm với người.” Vì thế, họ náo động và một đám rất đông dân chúng theo sau người tử tội. Síp-ri-a-nô bị điệu tới quảng trường Xét-tô. Người cởi áo choàng ra, quỳ xuống và sấp mình cầu nguyện với Chúa. Sau khi cởi áo giám mục trao cho các phó tế, và chỉ giữ lại trên mình áo dài bằng vải gai, người đứng đợi lý hình.
Khi lý hình tới, người bảo mấy tín hữu đứng quanh cho anh ta hai mươi lăm đồng tiền vàng. Đám anh em tín hữu trải vải và khăn ra trước mặt người. Rồi thánh Síp-ri-a-nô tự tay bịt mắt. Vì người không thể tự buộc tay, nên linh mục Giu-li-a-nô và phụ phó tế cũng tên là Giu-li-a-nô buộc giùm cho người.
Thánh Síp-ri-a-nô đã chịu tử đạo như thế. Để tránh cho dân ngoại khỏi tò mò, người ta đem cất xác người ở một nơi gần đó. Rồi đến đêm, họ mang đèn cầy và đuốc rước xác người về nghĩa trang của thái thú Ma-cô-bê Căn-đi-đi-a-nô, trên đường Máp-pa-la, gần các bể chứa nước. Cuộc rước này diễn ra trong bầu khí hân hoan khải hoàn. Ít ngày sau, quan kinh lược Ga-lê-ri-ô Mác-xi-mô qua đời.
Thánh Síp-ri-a-nô chịu tử đạo ngày 14 tháng 9 dưới thời các hoàng đế Va-lê-ri-a-nô và Ga-li-ê-nô, nhưng thật ra là dưới triều của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng được vinh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Thánh Cyprianô giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển tư tưởng Kitô giáo và việc thực hành nếp sống đạo trong thế kỷ thứ ba, cách riêng tại Bắc Phi châu.
Cyprianô pha trộn nơi bản thân mình sự dịu dàng và can đảm, tính cương nghị và sức mạnh. Ngài vui vẻ nhưng nghiêm khắc, nên người ta không biết liệu mình phải mến ngài hay kính sợ ngài. Vẻ mặt ngài bừng bừng trong cuộc tranh luận về phép Rửa tội, và tình cảm nóng nảy đó có thể khiến ngài quan tâm, bởi đó là thời gian ngài viết tác phẩm về sự kiên nhẫn. Thánh Augustinô nhận xét rằng thánh Cyprianô đền tội cho sự nóng nảy giận dữ của mình bằng cuộc tử đạo vinh quang của ngài.
2. Gương Sống:
a. Lòng can đảm.
Việc Đức Cornêliô cùng với anh em linh mục và giáo dân đã can đảm khi bị vua quan tra tấn hành hạ, đã làm nức lòng mọi người. Tin này làm cho mọi người hân hoan phấn khởi, nhất là thánh Cyprianô. Thánh Cyprianô đã hết lòng ca ngợi tấm gương cao cả này: “Làm sao diễn tả cho hết niềm phấn khởi và nỗi vui mừng ở đây, khi chúng tôi biết được những thành quả can đảm của những người anh em chúng tôi". Ngài viết tiếp rằng "ở đó, chính ngài (Đức Cornêliô) đã dẫn đầu anh em trong việc tuyên xưng đức tin; và việc tuyên xưng của những người anh em làm cho việc tuyên xưng của người đứng đầu nổi hẳn lên. Vì khi dẫn đầu đi tới vinh quang, Ngài đã lôi kéo được nhiều người cùng đi tới vinh quang. Ngài đã thuyết phục được toàn dân tuyên xưng đức tin, khi ngài sẵn sàng tuyên xưng trước hết thay cho tất cả mọi người, đến nỗi chúng ta không biết phải ca tụng điều gì trước: đức tin mau mắn vững bền của ngài hay là lòng yêu thương của mọi người không muốn tách rời khỏi người cha chung của họ? Lòng can đảm của vị Giám mục dám đi tiên phong trong việc tuyên xưng đức tin đã được mọi người công nhận…”
b. Lòng bao dung.
Lúc đó trong Giáo hội đã xảy ra cuộc tranh cải sôi nổi về những người đã chối đạo. Họ là những người vì quá sợ mà đã phạm tội bọ đạo và tế thần. Vấn đề đặt ra là có nên tha cho họ khi họ ăn năn sám hối trở về với Chúa hay không? Có được nhận họ trở lại với Hội thánh không?
Về vấn đề này có hai khuynh hướng đối chọi nhau.
Khuynh hướng thứ nhất đứng đầu là linh mục Nôvatianô chủ trương dứt khoát phải loại bỏ những hạng người này ra khỏi Giáo Hội, tuyên bố vạ tuyệt thông đối với họ.
Khuynh hướng thứ hai: Sau khi họp bàn với các Đức Giám mục, Đức Thánh Cha Conêliô tuyên bố tha thứ và đón nhận họ trở lại với Hội thánh. Nhóm giáo sĩ ly khai chống đối. Vì thế mà có cuộc tranh luận dằng dai trong Giáo hội, làm cớ cho vua quan phần đời lợi dụng cơ hội chống phá đạo.
3- Lời bàn
Về thánh Cornêliô: Thật đúng để nói rằng trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều giáo thuyết lầm lạc được đưa ra vào một thời điểm nào đó. Thế kỷ thứ ba đối diện với một vấn đề mà ít khi chúng ta để ý đến – một khi đã phạm tội trọng thì phải sám hối trước khi giao hòa với Giáo hội. Những người như thánh Cornêliô và thánh Cyprianô là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo. Họ là những phần tử của một Giáo hội truyền thống đầy sinh động, nhằm đảm bảo tính cách liên tục của những gì đã được Ðức Kitô khởi sự, và lượng giá những kinh nghiệm mới qua sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người đi trước (Rliner).
Về thánh Cyprianô: “Những cuộc tranh luận về phép Rửa tội và Bí tích Thống hối trong thế kỷ thứ ba nhắc nhở cho chúng ta rằng Hội Thánh tiên khởi không có những giải pháp có sẵn từ Chúa Thánh Thần. Các người lãnh đạo và các thành viên Hội Thánh của thời đó phải thực hiện những phán đoán tốt nhất mà họ có thể có, trong khi dõi theo toàn bộ giáo huấn của Chúa Kitô mà không bị đưa đi trệch đường bởi những sự thái quá về phía hữu hay phía tả.
4- Lời trích
Cornêliô: “Chỉ có một Thiên Chúa và một Ðức Kitô và một ngôi tòa Giám mục, được xây dựng đầu tiên trên thánh Phêrô bởi quyền năng Thiên Chúa. Do đó, không thể nào đặt ra một bàn thờ khác hay một tư tế khác. Bất cứ gì người ta thiết lập ra trong khi tức giận hay hấp tấp, bất chấp quy luật của Thiên Chúa, chỉ là một quy tắc giả mạo, trần tục và phạm thượng” (Thánh Cyprianô, tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)
Cyprianô: “Bạn không thể có Thiên Chúa là Cha nếu bạn không có Hội Thánh là Mẹ… Thiên Chúa là một, Chúa Kitô là một; đức tin là một, và dân Chúa được kết đính lại cùng nhau bằng sự hòa hợp trong một thân thể duy nhất… Nếu chúng ta là những người thừa kế của Chúa Kitô, chúng ta hãy ở lại trong sự bình an của Chúa Kitô; nếu chúng ta là những con cái Thiên chúa, chúng ta hãy là những người yêu mến hòa bình” (Thánh Cyprianô, trong tác phẩm “Sự Hiệp nhất của Giáo hội Công giáo”)
Lạy hai thánh Corlêliô và Cyprianô, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Co-nê-li-ô và thánh Síp-ri-a-nô. Xin nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà ban cho chúng con can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất. Chúng con cầu xin
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 35-37. 42-49
"Gieo xuống trong mục nát, sống lại trong bất hủ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, có người sẽ nói: những người chết sống lại thế nào? Họ lấy thân xác nào mà đến? Hỡi kẻ khờ dại! Vật ngươi gieo xuống, nếu nó không chết trước đã, thì sẽ không sống được; và vật gì ngươi gieo xuống, không phải là hình sẽ có, nhưng chỉ là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa mì hay bất cứ hạt gì khác. Việc kẻ chết sống lại cũng thế: gieo xuống trong mục nát, sống lại trong bất hủ. Gieo xuống trong hèn mạt, sống lại trong vinh quang. Gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong khoẻ mạnh. Gieo xuống là xác phàm, sống lại là xác thiêng.
Và nếu có xác phàm thì cũng có xác thiêng, như lời chép rằng: "Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Nhưng điều có trước, không phải thuộc tinh thần, song là điều thuộc thể xác, rồi mới đến cái thuộc tinh thần. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc địa giới; còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy". Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 55, 10c-11. 12-13
Ðáp: Tôi sẽ bước đi trước nhan Thiên Chúa, trong ánh sáng của cõi nhân sinh (c. 13c).
Xướng: 1) Tôi biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ tôi. Nhờ ơn Thiên Chúa là Ðấng mà tôi ca tụng lời hứa, tôi tin cậy vào Thiên Chúa, tôi không kinh hãi; con người phàm kia làm chi hại được tôi. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến dâng Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 4-15
"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Lời Chúa cần được tung vãi khắp nơi
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIV
Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại dụ ngôn người gieo
giống của Chúa Giêsu khi "có
đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu".
Hình ảnh "có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu" ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với dụ ngôn người gieo giống là Chúa Giêsu qua vai trò giảng dạy của Ngài, những lời giảng dạy như hạt giống gieo vào tai, vào lòng thính giả, trong đó không phải ai cũng tiếp nhận hạt giống này như nhau, mà là khác nhau, được chính Chúa Giêsu phân loại và tóm gọn lại thành 4 hạng trong dụ ngôn của Người như sau:
"Người
gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống
bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên
đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi
gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc
lên và kết quả gấp trăm".
Bốn hạng hay bốn loại thính giả lắng nghe lời Chúa hay đón nhận hạt giống lời Chúa này ra sao và được hạt giống lời Chúa tác dụng như thế nào nơi bản thân họ, hay nói cách khác, hạt giống lời Chúa đã sinh hoa kết trái ra sao nơi họ, tất cả đã được Chúa Giêsu dẫn giải ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay theo lời yêu cầu của các môn đệ:
"Dụ ngôn
đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ
đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng
họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi
nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng
nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là
những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và
thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi
trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo,
họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Như thế, căn cứ vào những gì được Chúa Giêsu dẫn giải, thì trình độ lãnh nhận hay thái độ lãnh nhận lời Chúa được chia ra làm 4 cấp theo tác dụng của lời Chúa, thứ tự như sau:
1- "Vệ đường" - Hững hờ trong tâm linh: "Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ". Trường hợp này thường thấy nơi những con người chẳng tin tưởng gì hết, ngoài chính bản thân họ, họ chủ quan, cố chấp, thành kiến, ý riêng, hoàn toàn sống theo bản tính tự nhiên và buông thả, đến độ không cần bị cám dỗ họ cũng sa ngã, phạm tội mà không biết, mất hết ý thức tội lỗi v.v.
2- "Sỏi Đá" - Nông cạn trong cuộc sống: "Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui". Thường thấy xẩy ra trong các cuộc tĩnh tâm, tham dự viên rất hào hứng khi nghe giảng, vổ tay, cười lớn, thích thú, gật gù v.v. thế nhưng sau đó vẫn tiếp tục sống với những gì phản lại với lời giảng mà họ cảm thấy hay ho thấm thía nhất thời.
3- "Bụi gai" - Bất ổn trong nội tâm: "Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả". Có những Kitô hữu Công giáo rất thông thuộc lời Chúa, hay lập lại Lời Chúa khi cần, nhắc nhở Lời Chúa cho kẻ khác, và sống đời cầu nguyện một cách kỹ lưỡng hằng ngày, cho tới khi hoạt động đụng chạm mới thấy trình độ thấm nhuần lời Chúa của họ tới đâu.
4- "Đất lành" - Đáp ứng trong tin tưởng: "Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái". Mẫu gương cho thành phần "đất lành chim đậu" này không ai hơn Đệ Nhất Tạo Vật về ân sủng là Mẹ Maria, nhờ luôn suy niệm và đáp ứng lời Chúa (xem Luca 2:19,51), bởi thế Mẹ luôn đầy ân phúc và không bao giờ giảm một chút gì ân phúc nơi Mẹ, trái lại, ân phúc càng đầy nơi Mẹ, càng làm cho Mẹ nên giống Chúa hơn ai hết, đến độ Mẹ trở nên rực rỡ như mặt trời (xem Khải Huyền 12:1; Diễm Tình Ca 6:10).
Ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô nói với Giáo đoàn Corintô về điều kiện bất khả thiếu cho thực tại phục sinh, và hình thức thân xác của con người được phục sinh được biến đổi vào ngày cùng tháng tận như sau: "Vật ngươi gieo xuống, nếu nó không chết trước đã, thì sẽ không sống được; và vật gì ngươi gieo xuống, không phải là hình sẽ có, nhưng chỉ là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa mì hay bất cứ hạt gì khác. Việc kẻ chết sống lại cũng thế: gieo xuống trong mục nát, sống lại trong bất hủ. Gieo xuống trong hèn mạt, sống lại trong vinh quang. Gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong khoẻ mạnh. Gieo xuống là xác phàm, sống lại là xác thiêng".
Nếu Chúa Kitô đã ám chỉ Người là hạt múa miến được gieo xuống đất cần phải mục nát đi mới sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24), và đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Người nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể (hạt lúa miến được gieo xuống đất) và Mầu Nhiệm Vượt Qua (hạt lúa miến bị mục nát đi trong mồ sự chết, nhưng sau đó lại đã trổ sinh hoa trái trong vinh quang phục sinh) thế nào, thì thực tế cho thấy, hạt giống Lời Chúa, ám chỉ bản thân Người, được Vị Thiên Chúa chủ ruộng đi gieo trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, cũng vẫn phải tiếp tục bị mục nát đi mới sinh nhiều hoa trái.
Tuy nhiên, hạt giối Lời Chúa cần phải được mục nát đi ấy không phải chỉ bị mục nát trong lòng đất tốt, ám chỉ tác động hợp tác tích cực của những ai nghe và giữ Lời Chúa, mà còn nơi cả ở 3 môi trường tệ hại nữa: hững hờ, nông cạn và phân tâm, nơi đa số các tâm hồn làm cho hạt giống không sinh hoa kết trái gì. Và chính 3 môi trường bất lợi cho hạt giống Lời Chúa ấy, những môi trường, có thể nói, vị chủ ruộng vô cùng quảng đại cũng cố ý gieo hạt giống của mình vào nữa, dù Ngài thừa biết bản chất của chúng là như thế, như Ngài đã cố tình sai Lời của Ngài xuống trần gian tội lỗi bất xứng này, hay như Ngài cố ý sai Người Con duy nhất của Ngài đến thu hoa lợi nơi thành phần tá điền hung ác rất nguy hiểm cho Con của Ngài (xem Mathêu 21:33-46), chỉ với mục đích duy nhất là để cứu lấy chính thế gian đã bị mục nát, không thể tự cứu mình, bằng chính cuộc mục nát vượt qua của Con Ngài thay cho họ!
Tâm tình của Thánh Vịnh 55 trong Bài Đáp Ca hôm nay là tâm tình của những tâm hồn nào cảm nghiệm thấy lòng thương xót Chúa nơi ơn cứu độ Ngài ban cho họ, để nhờ đó hạt giống sự sống thần linh khi họ lãnh nhận qua Bí Tích Thánh Tẩy Tái Sinh được trổ sinh hoa trái, khi họ biết để cho Chúa Kitô tiếp tục cuộc vượt qua mục nát của Người nơi con người và đời sống của họ, một phản ảnh thần linh nơi đức tin của họ, như thể họ "bước đi trước nhan Thiên Chúa" vậy:
1) Tôi biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ tôi. Nhờ ơn Thiên Chúa là Ðấng mà tôi ca tụng lời hứa, tôi tin cậy vào Thiên Chúa, tôi không kinh hãi; con người phàm kia làm chi hại được tôi.
2) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến dâng Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh.
Thánh Rôbertô Bellarminô
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(1542-1621)
Ngày 17/9
(ĐTC Biển Đức XVI nói về vị thánh này ở bài 133, trong loạt 138 bài giáo lý về Giáo Hội hiệp thông tông truyền - xin bấm vào cái link ngay dưới đây:)
Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia Cervini. Em Đức Giáo hoàng Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài tỏ ra là một học sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên trong 4 năm tại Florence và Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy Lạp và được chỉ định dạy cho các bạn cùng lớp. Dầu chưa làm Linh mục, Ngài thường được mời đi giảng và được coi như là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học trước hết ở Padua, rồi sau ở Louvain và thụ phong Linh mục tại đây năm 1570. Các bài giảng của Ngài tại Louvain mang lại thành công đặc biệt. Anh em Tin Lành tại Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé, Ngài thường đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các tác phẩm của thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách hữu hiệu nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết Giansenisme sau này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do Thái và đã soạn cho họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo phụ và các văn sĩ khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm “về các văn sĩ trong Giáo hội” ( xuất bản năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một công việc khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các cha dòng Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại đối với các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ lực cho công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở thành thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh. Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại Ingolstudt, từ năm 1586 – 1593 dưới tựa đề “các cuộc tranh luận về đức tin công giáo chống lại các người theo lạc giáo thời nay”. Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống và nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của Giáo Hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ này là tu chỉnh tác phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy ban tu chỉnh nghi thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp phần lớn cho Đức Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng Y Goetni, vị đặc sứ của Đức giáo hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một nhà ngoại giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng nhọc, nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức Giáo hoàng Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm. Đức Giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy quyền của Giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường trong Giáo Hội ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định. Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh Thánh thời Đức Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện trưởng của học viện Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga.
Năm 57 tuổi, sau 39 năm trong Dòng mà ngài thấy “không biết buồn là gì”, ngài được Đức Thánh Cha nâng lên hàng hồng y, hoàn toàn ngoài ý muốn của ngài và vì tuân phục mà thôi, để phục vụ trong giáo triều Rôma cho tới chết, thời gian mà ngài cảm thấy “không biết vui là gì.”
Chúng ta biết là trong Dòng Tên, ngoài ba lời khấn như mọi dòng khác là khiết tịnh, thanh bần và tuân phục, còn có lời khấn thứ tư là tuân phục Đức Thánh Cha khi được trao một sứ mạng nhằm phục vụ Hội Thánh. Đồng thời trong Dòng cũng khấn không nhận các phẩm chức như giám mục hay hồng y, trừ khi Đức Thánh Cha buộc phải vâng lời. Theo giáo luật, người thuộc một dòng tu khi làm giám mục hay hồng y sẽ trực thuộc Đức Giáo Hoàng, không còn thuộc quyền bề trên nhà dòng nữa. Điều này, cũng có nghĩa là về tinh thần thì còn thuộc nhà dòng, nhưng trong thực tế không chung sống với anh em nữa. Thánh Bellarminô rơi đúng vào trường hợp này. Khi nhận mũ áo hồng y, ngài khóc nức nở và chỉ xin được trở lại sống với anh em trong Dòng.
Ngoài một thời gian làm Tổng Giám mục tại Capua, cho tới năm 1605 thì Ngài được triệu về Roma và cầm viết bênh vực Giáo Hội. Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua Giacôbê I nước Anh và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony. hầu hết những năm tháng còn lại, trong khi làm hồng y, ngài phục vụ trong các thánh bộ của giáo triều. Ngài phải nghiên cứu và cho ý kiến về những vấn đề lớn trong đời sống Hội Thánh vào một giai đoạn khó khăn và phức tạp, thí dụ quyền của Đức Thánh Cha trong lãnh vực chính trị, vụ án Galileo thời danh, cuộc tranh luận về ơn thánh giữa các cha dòng Đaminh và dòng Tên, tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, vấn đề giáo hội quốc gia tự trị. Đem hết tài năng và nghị lực để phục vụ Hội Thánh, với lòng tận tụy và khiêm tốn, với đời sống đơn sơ và khắc khổ, ngài được coi là ngọn đèn sáng cho giới trí thức, là tấm gương cho những người sống đời tận hiến.
Luôn ăn mặc và xử sự như một linh mục bình thường, khổ tâm trong dinh thự hồng y với những lễ nghi phiền phức, ngài chỉ thực sự thoải mái với bầu khí đơn sơ và ấm cúng trong Dòng. Những ngày cuối đời, được Đức Thánh Cha cho phép trở về nhà Dòng, ngài đã chọn sống trong nhà tập với các tập sinh là những người nhỏ nhất trong Dòng.
Ngài qua đời tại Rôma ngày 17.9.1621, được Đức Thánh Cha Piô XI tuyên thánh năm 1930 và ban danh hiệu thánh sư năm 1931. Theo di chúc, ngài xin được chôn cất trong lễ phục của linh mục, và tổ chức lễ an táng đơn sơ như một người bé nhất trong Dòng. Tuy nhiên Đức Thánh Cha bắt phải cho ngài mặc phẩm phục hồng y và tổ chức đám tang thật long trọng. Thế là dù đã chết, ngài vẫn phải vâng lời!
Tuy là một luật trừ, ngài cho thấy được cả hai mặt của Dòng Tên: vừa là môn đệ của Chúa Giê-su nghèo khó và khiêm tốn, vừa là người con tận tụy và vâng lời Hội Thánh.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ website TGP Sài Gòn và Dòng tên