
SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
(Gioan 11:25)

Tái Sinh
Thần Linh
Phụng Vụ Lời Chúa Tuần II
Phục Sinh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Nếu "Thày là sự sống
lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn
Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho nguyên Tuần
Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8
ngày có
các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn
liên quan đến các lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện
ra mà
thôi, thì
chủ đề "Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại của Mùa Phục
Sinh,
bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần.
Vậy chủ đề "Thày là sự
sống" ở Phụng Vụ Lời Chúa cho các ngày trong tuần
lễ thứ
hai của Mùa Phục Sinh như thế nào? Ngày
Chúa Nhật đầu của tuần lễ thứ hai này, Ngày Chúa Nhật Lễ Lòng Thương Xót
Chúa, ngày
cuối cùng của Tuần Bát Nhật, thuộc
về chính Tuần Bát Nhật, đồng
thời cũng là thời điểm mở đầu cho phần thứ hai của Mùa Phục Sinh theo
chủ đề "Thày là sự sống".
Vì ngay ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Phục Sinh,
ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, chúng ta thấy "sự sống" ở cả
nơi Chúa Kitô tỏ mình ra cho riêng tông đồ Toma lẫn ở nơi đức tin của
tông đồ Toma đặt ở nơi Người.
Thật vậy, trong 6 tuần lễ còn lại của Mùa Phục Sinh, sau Tuần Bát Nhật
Phục Sinh, các bài Phúc Âm, bao gồm cả Chúa Nhật lẫn ngày thường,
từ Thứ Hai đến hết Thứ Bảy, đều chất chứa một nội
dung duy nhất: "Thày
là sự
sống". Một điều cần lưu ý là nguyên việc Giáo Hội chọn đọc cho cả
Mùa Phục Sinh suốt 7 tuần lễ, tức bao gồm cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh,
hai cuốn sách Thánh Kinh Tân Ước là Phúc Âm của Thánh Ký Gioan và Sách
Tông Vụ đã đủ cho thấy hiển nhiên về chủ đề "sự sống" rồi vậy.
Bởi vì, "sự sống" đây là sự sống thần linh, sự sống xuất phát từ Chúa
Kitô Vượt Qua, đồng thời cũng là sự sống cần phải được chấp nhận bằng
lòng tin tưởng vào Người. Thế nên, cho dù trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh,
Phụng Vụ Lời Chúa theo chiều hướng "Thày là sự sống lại", bởi các Bài
Phúc Âm trong suốt tuần lễ đầu tiên này của Mùa Phục Sinh đều tường
thuật lại từng lần Chúa Kitô hiện ra với các tông đồ hay các môn đệ để
chứng tỏ Người đã phục sinh từ trong cõi chết, ý nghĩa chính yếu vẫn là
"sự sống". Vì tự việc Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết tỏ mình ra
"là sự sống lại", qua những lần Người hiện ra, là để các môn đệ nói
chung, nhất là các tông đồ nói riêng, tin vào Người mà được sự sống.
Sách Tông Vụ là cuốn sách trong bộ Thánh Kinh Tân Ước thuật lại sứ vụ,
hoạt động và tiến trình truyền giáo của Giáo Hội sơ khai, bắt đầu từ
biến cố Thánh Thần Hiện Xuống trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đấng ban sự sống,
qua Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, trước hết và trên hết bằng chứng từ
của Giáo Hội về Chúa Kitô, cho dù có kèm theo việc rao giảng Phúc Âm cho
lương dân. Ơn gọi, sứ vụ và công cuộc truyền giáo của Giáo Hội là để
mang lại cho nhân loại sự sống đời đời, qua việc họ nhận biết Chúa Kitô,
nơi lời rao giảng và chứng từ yêu thương của Kitô hữu.
Phúc Âm của Thánh ký Gioan là cuốn phúc âm về sự sống, vì cốt lõi của
phúc âm này đó là "sự sống chiếu sáng con người" (Gioan 1:4), như chính
Chúa Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là chính "sự
sống" đã khẳng định: "Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không đi
trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12). Để thông
ban sự sống đời đời cho nhân loại nói chung và cho những ai tn vào Người
nói riêng, Chúa Kitô Phục Sinh đã sử dụng những phương tiện để thông
ban, được gọi là bí tích, trước hết và trên hết đó là chính Mình Thánh
Máu Thánh của Người.
Và Người ví Người như nguồn sống của nhân loại nói chung và Kitô hữu nói
riêng. Bởi thế mà, trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ nghe thấy càc bài
Phúc Âm của Thánh ký Gioan (nhất là trong ngày trong tuần) về sự sống,
trước hết liên quan đến việc tái sinh, hay đến Bánh Sự Sống, hoặc đến vị
mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên cho chiên được sự sống,
hay đến cây nho thông nhựa sống cho cành nho để cành nho sinh hoa trái,
hoặc đến đức bác ái yêu thương là hồn sống cho tình trạng hiệp nhất nên
một, hay chính Thánh Linh là Đấng ban sự sống.
Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Chúa Nhật II Phục Sinh - Lễ LTXC
(xin xem bài
suy niệm CN II PS trong
Bát Nhật
Phục Sinh)
Thứ Hai sau
Chúa Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
4, 23-31
"Khi họ cầu nguyện xong, thì
được đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, sau khi được
phóng thích, Phêrô và Gioan trở về cùng các anh em, và thuật lại cho họ
nghe tất cả những điều mà các thượng tế và kỳ lão đã nói. Vừa nghe thuật
lại, họ đồng thanh cất tiếng nguyện cùng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa,
Chúa là Ðấng tạo thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó. Nhờ Thánh
Thần, Chúa đã dùng miệng tổ phụ chúng con là Ðavít tôi tớ Chúa mà phán:
"Tại sao chư dân chấn động, và các nước lại mưu đồ chuyện luống công?
Các vua thiên hạ đều nổi dậy, các thủ lãnh toa rập với nhau chống lại
Chúa và Ðấng Kitô của Người". Vì quả thật, tại thành Giêrusalem này,
Hêrôđê và Phongxiô Philatô đã liên kết với các dân ngoại và dân Israel,
mà chống lại tôi tớ thánh của Chúa là Ðức Giêsu, Ðấng Chúa đã xức dầu,
để thực hiện những điều mà quyền năng và ý định Chúa đã dự liệu từ
trước. Và lạy Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các
tôi tớ Chúa được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa
giơ tay chữa lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi
thường nhân danh Thánh Tử của Chúa là Ðức Giêsu".
Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ
đang tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin
tưởng rao giảng lời Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2,
1-3. 4-6. 7-9
Ðáp: Phúc cho
tất cả những ai tin tưởng nơi Chúa (c. 13b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tại sao chư dân chấn
động, và các nước mưu đồ chuyện luống công: các vua mặt đất cùng nổi
dậy, và bậc quân vương nhất tề âm mưu phản nghịch Chúa và Ðấng Kitô của
Người. Họ nói: "Ðập tan xiềng xích chúng ra, gông cùm chúng, hãy ném cho
xa bọn mình". - Ðáp.
2) Ðấng ngự trên thiên đình cười
nhạo, Chúa mỉa mai cười chúng. Bấy giờ Người phán bảo chúng trong cơn
thịnh nộ, và làm cho chúng rối loạn trong cơn lôi đình: "Nhưng Ta đã đặt
vương nhi Ta trên núi Sion, núi thánh của Ta". - Ðáp.
3) Ta sẽ truyền rao thánh chỉ của
Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã
sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần
sản nghiệp, và tận cùng cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng
cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra". - Ðáp.
Alleluia: Mt
23, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Các con hãy
đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3,
1-8
"Nếu không tái sinh bởi trời,
thì chẳng ai được thấy Nước Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, trong nhóm biệt phái, có
người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người Do-thái. Ông đến thăm Chúa
Giêsu ban đêm và thưa rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi nhận biết Thầy là một
vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy
làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi
bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được
thấy Nước Chúa". Nicôđêmô thưa Chúa rằng: "Một người đã già, làm sao có
thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?"
Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi
nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh
bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là
thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái
sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng
chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng
vậy".
Ðó là lời Chúa.

Cảm Nghiệm
Chủ đề "Thày là
sự sống" của ngày Thứ Hai trong Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh
"Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện hết sức minh nhiên trong chính bài Phúc Âm qua những lời Chúa
Giêsu nói về chính việc tái sinh bởi trời, bởi trên cao với ông
Nicôđêmô là một trong các viên chức thuộc Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thời
bấy giờ, mà điển
hình nhất trong
số thành phần tái sinh thần
linh được
bài đọc 1 hôm nay cho thấy đó là chính cộng đoàn
Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn bất khuất trước quyền
lực tối tăm đầy đe dọa chết chóc bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Đấng
Phục Sinh quyền năng, một cộng đoàn được Người ở cùng nhờ Thánh Thần ngự
xuống trên họ.
"Thật, Tôi bảo
thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không
ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết
nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên
vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi
đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi
đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Trong câu
Phúc Âm chính yếu trên đây, chúng ta thấy 4 điểm then chốt về sự kiện
tái sinh thần linh sau đây:
1) Tái
sinh thần linh: tác nhân - "bởi nước và Thánh Thần". Khi lãnh
nhận Phép Rửa, Kitô hữu dự tòng đã thật sự được rửa bởi nước cho sạch
nguyên tội (lẫn tư tội nếu là người lớn), và được xức dầu Thánh Linh.
Tuy nhiên, "nước và Thánh Thần" ở đây đều có thể hiểu về Thánh
Thần: "nước" ám chỉ Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thông
cho các tông đồ từ thân xác phục sinh của Người khi Người hiện ra với
các vị vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần (xem Gioan 20:22; Gioan
7:37-39); "Thánh Thần" đây là Đấng được Chúa Kitô Thăng Thiên
từ Cha sai đến (xem Gioan 15:26; Tông Vụ 1:8, 2:1-4). Như thế, "nước"
đây là Thánh Thần được ban cho Kitô hữu dự tòng khi họ lãnh nhận Bí Tích
Thánh Tẩy, và "Thánh Thần" đây là Đấng được ban cho Kitô hữu
trưởng thành nơi Bí Tích Thêm Sức để họ có thể làm chứng cho Chúa Kitô.
2) Tái
sinh thần linh: mục đích - "được
vào nước Thiên Chúa", nghĩa là được Ơn Cứu Độ, được hiệp nhất nên
một với Chúa Kitô, được hiệp thông thần linh với Ba Ngôi Chí Thánh là
Cha và Con và Thánh Thần, như được thể hiện ở Giáo Hội sơ khai được
Thánh ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay: "'Lạy
Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các tôi tớ Chúa
được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa giơ tay chữa
lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi thường nhân danh
Thánh Tử của Chúa là Ðức Giêsu'. Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ đang
tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin
tưởng rao giảng lời Thiên Chúa".
3) Tái sinh thần linh: lý do - "sự
gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh,
thì là thần linh". Nghĩa là tự bản chất và khuynh hướng của mình, con
người chỉ sống theo bản tính tự nhiên trần tục của mình, bởi họ "sinh
bởi máu huyết, bởi ước muốn nhục dục, bởi ý muốn con người" (Gioan
1:13) hèn hạ tội lỗi, nên chỉ hướng hạ và
sa ngã phạm tội mà thôi, nếu họ không được cứu độ, được giải thoát để có
thể "tôn thờ Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý"
(Gioan 4:24), để có thể sống xứng đáng với "quyền làm con Thiên Chúa"
(Gioan 1:12), một cách tự do, theo các tác động thần linh, "như gió
muốn thổi đâu thì thổi", được chính Chúa Kitô khẳng định cuối
bài Phúc Âm hôm nay.
4) Tái
sinh thần linh: tác dụng - "Gió
muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu
đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy" (Bài Phúc Âm
ngày mai). Như thế có nghĩa là "mọi kẻ sinh bởi Thần Linh" là những ai
sống theo đức tin, hoàn toàn tin tưởng để Chúa tác động trong mình và
luôn đáp ứng theo tác động Thần Linh. Đó là lý do Bài Đáp Ca mới có câu
đáp: "Phúc
cho tất cả những ai tin tưởng nơi Chúa". Vì việc tái sinh thần linh là hoa trái của Mầu Nhiệm Vượt
Qua, ở chỗ, nhờ quyền năng phục sinh của Chúa Kitô toàn thắng tội lỗi và
sự chết nhờ Thánh Thần của mình mà ai tin vào Người, nên một với Người
chắc chắn sẽ được Người biến đổi, đến độ có thể làm được những gì xác
thịt của họ vốn hướng hạ theo chiều hướng dân ngoại lăng loàn không thể
nào làm được (xem Marco 16:16-18). Bởi thế, chính tình trạng mỗi ngày
được biến đổi sau khi được tái sinh thần linh mà Kitô hữu thật sự đang
sống trong thời điểm cánh chung, một thời điểm cánh chung được thể hiện
ngay nơi thân xác của họ mỗi ngày được trở nên giống như thân xác vinh
hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21). Nhờ tái sinh Kitô hữu sống đức
tin đã và đang thực sự được biến đổi, nghĩa là được phục sinh ngay khi
còn sống trong chính thân xác của mình.
Thứ Ba sau Chúa
Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 4,
32-37
"Họ một lòng một ý với nhau".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo
đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi
sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế,
trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng
nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân
các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ.
Ông Giuse, người mà các tông đồ đặt tên là Barnabê (nghĩa là con sự an ủi),
một thầy tư tế, quê ở Cyprô, có một thửa ruộng, ông bán đi và đem tiền đặt
dưới chân các tông đồ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 92, 1ab.
1c-2. 5
Ðáp: Chúa làm vua,
Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc
thiên oai. Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ
không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn
có Chúa. - Ðáp.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng
tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn
thuở. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 7-15
"Không ai lên trời được, ngoài
người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô
rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng:
Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng
gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh
cũng vậy".
Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra
thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông
không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết
thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các
ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới
đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế
nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con
Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì
Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì
không bị tiêu diệt muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Chủ đề "Thày là sự
sống" của ngày Thứ Ba trong Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh
"Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời Chúa Giêsu khẳng định với nghị
viên Nicôđêmô
trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ về
tính chất chân thực của sự kiện hay điều kiện cần phải tái sinh thần linh để
có thể được tự do làm con cái Thiên Chúa dưới tác động của Thánh Thần như
gió muốn thổi đâu thì thổi, mà điển
hình nhất trong
số thành phần tái sinh thần
linh được
bài đọc 1 hôm nay cho thấy đó là chính cộng đoàn
Kitô hữu tiên khởi, một cộng đoàn bác ái yêu thương nhau như trong một
gia đình có cùng một Cha trên trời, cùng một Đầu là Chúa Kitô và cùng một
hồn sống là Thánh Linh.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 5:17-26):
"Bấy giờ tất cả đoàn
tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của
riêng, song để mọi sự làm của chung... Vì thế, trong các tín hữu, không có
ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán
được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát
cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ".
Phúc Âm
(Gioan 3:9-13):
"Nicôđêmô hỏi lại
rằng: 'Việc ấy xảy ra thế nào được?' Chúa Giêsu đáp: 'Ông là bậc thầy trong
dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết:
Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi
minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi
Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên
trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ
trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".
Trong câu
phúc âm chính yếu trên đây, "những sự dưới đất" và "những sự trên
trời" mà Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây với nghị viên Nicôđêmô là thành
phần thiên về Luật Moisen là gì, nếu không phải "những sự dưới đất" đây
là chính sự việc tái sinh thần linh hơn là nghi thức cắt bì của Do Thái giáo
trong Cựu Ước, và
"những sự trên trời" đây là mạc khải thần linh, là dự án cứu độ mầu
nhiệm của Thiên Chúa, là chính Nước Thiên Chúa mà chỉ những ai tái sinh thần
linh mới được thừa hưởng.
Thật vậy, nếu không được tái sinh "bởi trời" hay "bởi nước và
Thánh Linh", như Chúa Kitô đã đề cập đến với nghị viên Nicôđêmô trong
bài Phúc Âm hôm qua thì không một con người tạo vật nào vốn "sinh bởi
xác thịt là xác thịt" có thể "vào Nước Thiên Chúa" đó là được
hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, thông phần vào bản tính thần linh của
Ngài, sống sự sống thần linh với Ngài và như Ngài.
Chính Chúa Kitô, ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay đã cho biết thành phần được
"tái sinh bởi trên cao", "bởi nước và Thánh Linh" hoàn toàn
khác với và trổi vượt trên những ai không được hay chưa được tái sinh. Ở
chỗ: "Gió
muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu
đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Đúng thế, những ai được "tái sinh bởi Thần Linh" là thành phần được
trở nên con cái của Thiên Chúa, được Thiên Chúa ban Thần Linh của Ngài cho,
để nhờ đó có thể nhận biết Ngài như Ngài là và yêu mến Ngài như Ngài xứng
đáng, với tư cách là con của Ngài, thành phần, nhờ tác động của Thần Linh
trong họ "như gió muốn thổi đâu thì thổi", họ chỉ biết tuân theo
một cách ngoan ngoãn và mau chóng, bằng "đức tin tuân phục" (Roma
1:5) như Mẹ Maria trong Biến Cố Truyền Tin, hoàn toàn tin tưởng phó thác cho
Ngài, không cần "biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu".
Thành phần được Thần Linh Chúa tác động và điều khiển như thế, nếu biết đáp
ứng là thành phần sống Sự sống Thần linh của Chúa và với Chúa, Đấng làm chủ
họ và sống trong họ, như vua cai trị lòng họ và như Chúa tể mọi sự của họ,
một tâm trạng và Cảm nghiệm Thần linh như đã được diễn đạt ở Bài Đáp Ca hôm
nay như sau: "Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai. Chúa đã vận uy quyền,
Ngài đã thắt long đai".
Thứ Tư sau Chúa
Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 5,
17-26
"Kìa, những người mà các ông tống
ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vị thượng tế và
mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt
các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các
ngài đi và nói: "Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời
hằng sống này". Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
Lúc bấy giờ vị thượng tế và các người
thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão trong dân
Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa
ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: "Thật chúng tôi
thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi
chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả".
Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh
cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy
đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: "Kìa, những
người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền
thờ". Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không
dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3.
4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Kìa người đau
khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi
lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh
diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa,
cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và
Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui
tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã
nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh
chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy
nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở nơi
Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 26
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ
dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói
với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3,
16-21
"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để
thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô
rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả
những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời
đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian,
nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì
không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian
và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật
vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ
những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật,
thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động
trong Thiên Chúa.
Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Tư trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời Chúa Giêsu tiếp
tục nói với nghị
viên Nicôđêmô
trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bấy giờ, từ "những
sự dưới đất" là sự
kiện tái sinh thần linh (như trong 2 bài phúc âm đầu tuần Thứ Hai và Thứ
Ba), đến "những sự
trên trời" về
chính thực tại thần linh là tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã muốn
"những gì sinh bởi xác thịt là xác thịt"
nơi con người được tái sinh thành
"những gì sinh bởi thần linh là thần linh"
nhờ Con của
Ngài, trái với thành phần
chưa được tái
sinh thần linh trong Bài Đọc
1 hôm nay, thành
phần tìm hết cách để triệt hạ các tông đồ làm chứng cho Đấng Phục Sinh cho
dù họ thấy chứng cớ bất khả chối cãi nơi bản thân các vị và các việc các vị
làm trong / cho cộng đồng dân chúng bấy giờ.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 5:17-26):
"Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là
phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng
đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: 'Hãy đi
vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này'. Nghe
lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
"Lúc bấy giờ vị
thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả
các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra.
Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về
báo cáo rằng: 'Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh
vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai
ở bên trong cả'.
"Khi nghe các lời
đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không
biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo
tin cho họ rằng: 'Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang
đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ'. Bấy giờ viên lãnh binh cùng các
thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng
ném đá".
Phúc Âm (Gioan
3:16-21):
"Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con
của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa
không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế
gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị
luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh
Con Một Thiên Chúa".
Trong bài
phúc âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã nói riêng về lý do tại sao
con người không chấp nhận mạc khải thần linh, không tin vào Con Một
Thiên Chúa được ban cho họ để cứu độ họ:
"Đây
là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối
tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu
xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của
mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự
sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên
Chúa".
Ở câu
Phúc Âm trên đây, Chúa Giêsu đã
khẳng định rằng: "Người
đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy,
ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ
những việc làm của mình bị khiển trách".
Đúng
thế, thực tế cũng cho thấy rõ ràng
là "Người
đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa". Và
chính vì thế,
vì "hành động
của họ xấu xa" mà họ mới "ghét
sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển
trách".
Những
hành động cụ thể chứng tỏ con người yêu
tối tăm hơn ánh sáng, sợ ánh sáng và không dám ra trước ánh sáng như:
không chấp nhận tội lỗi của mình để khỏi phải sửa mình nhờ đó có thể
tiếp tục sống thoải mái theo bản tính tự nhiên, hay giải thích Lời Chúa
hoặc luật Chúa theo khuynh hướng dễ dãi của mình để khỏi phải bỏ mình
tuân giữ, hay sau khi cầu xin cho biết ý Chúa và biết được đâu là ý của
Ngài rồi thì chối bỏ, chạy trốn, không dám theo.
Thành phần của phe vị thượng tế và bè Sađốc trong bài đọc một hôm nay là
những con người điển hình nhất "yêu tối tăm hơn ánh sáng", sợ ánh
sáng, không dám ra trước ánh sáng, không dám chấp nhận sự thật, trái
lại, càng muồn dập tắt ánh sáng, chôn vuì sự thật, một thực tại thần
linh bất diệt không ai có thể chống lại được.
Trái lại, các vị tông đồ lại
"hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được
sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa", Đấng đã làm sáng tỏ
hành động của họ, ở chỗ, chính khi "vị
thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn
nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa
mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: 'Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho
dân chúng biết mọi lời hằng sống này'. Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài
vào đền thờ và giảng dạy".
Tất cả những tâm tình chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay (dưới đây)
đều được ứng nghiệm nơi trường hợp của các vị tông đồ chứng nhân tiên
khởi, thành phần không thể không làm chứng về tất cả những gì các vị đã
thấy và đã nghe, bất chấp mọi khốn khổ và gian nguy xẩy ra cho bản thân
họ, bởi họ tin vào Chúa Kitô Vượt Qua, chỉ tìm "nương tựa ở nơi
Người", Đấng ở cùng các vị cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), nhất
là khi các vị vì danh Người mà bị thế gian bách hại (xem Gioan
15:18-21), như trong Bài Đọc 1 hôm nay khi các vị được "Thiên Thần
Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi...", bởi "Thiên Thần Chúa hạ
trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ":
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen
Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng
vui.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa,
cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và
Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui
tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã
nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh
chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy
nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở nơi
Người.
Thứ Năm sau
Chúa Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các
lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các
tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các
ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế
mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các
ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và
các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại,
Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng
quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel
được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời
đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời
Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33,
2 và 9. 17-18. 19-20
Ðáp: Kìa người
đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong
mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và
hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương
tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác,
để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa
nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn
trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức
gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.
Alleluia: Ga
16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự
thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3,
31-36
"Ðức Chúa Cha thương mến Con
Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng
về Chúa Giêsu rằng: "Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi
người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất.
Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và
nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai
chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là
Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa,
vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban
mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai
không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
Ðó là lời Chúa.

Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống"
của ngày Thứ Năm trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua những lời chứng
của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về thế giá khả tín của Chúa
Giêsu liên
quan đến 2 vấn đề then chốt Người đã mạc khải cho nghị
viên Nicôđêmô
biết,
bao gồm
cả vấn đề "những
sự dưới đất"
là việc tái sinh
thần linh, lẫn vấn đề "những
sự trên trời"
là tình yêu
của Thiên Chúa muốn cứu độ con người nơi Con của Ngài, một Người Con
mà các tông đồ đã được rửa trong Thánh Thần, trong Bài Đọc
1 hôm nay, tỏ
ra hiên ngang rao giảng và làm chứng, bất chấp lệnh cấm đoán của
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái vẫn tiếp tục cố tình muốn bóp nghẹt sự thật,
muốn tránh né trách nhiệm về hậu quả họ đã gây ra cho Người Con
của Thiên Chúa.
"Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước
công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: 'Ta đã ra lệnh cấm các ngươi
nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các
ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ
trên chúng tôi ư?' Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: 'Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã
cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập
giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu
Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi
là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban
cho mọi kẻ vâng lời Người?' Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và
tìm mưu giết các ngài".
Nếu "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống
đời đời và sự sống này ở nơi Con của Ngài" (1Gioan 5:11), mà chỉ có
ai tin vào Chúa Kitô mới được sự sống mà thôi (xem Gioan 3:16). Mà sự
sống đây được Chúa Kitô ban phát cho dân của Người bấy giờ như của ăn
mang lại sự sống đời đời (xem Gioan 6:27) là chính bản thân Người nói
chung, là mạc khải thần linh của Người, qua lời Người nói và việc Người
làm.
Đó là lý do Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc
Âm hôm nay đã làm chứng về bản thân đầy thế giá và đáng tin của Chúa
Kitô:
"Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: 'Ðấng từ trên
cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về
đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết
mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó.
Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của
Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa
sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn
lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con
thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy
sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy'".
Vị Tiền Hô này còn khẳng định
những lời Người nói hay việc Người làm (chứng) đều mang lại sự sống cho
những ai tin tưởng vào Người: "Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì
quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật.... Ai tin vào Con thì có sự sống
đời đời". Và chính vì "lời chứng của Người không ai chấp nhận",
vì "cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt" (Bài Phúc Âm Thứ Hai
Tuần II Phục Sinh) và "Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói
những sự thuộc về đất" (Phúc Âm hôm nay), mới cần đến "Ðấng từ
trời mà đến thì vượt trên hết mọi người" để tỏ cho họ biết, nhờ đó
họ có thể được "tái sinh bởi trời" (Phúc Âm Thứ Hai Tuần II
Phục Sinh), như một "con người sinh bởi Thần Linh" (Bài Phúc Âm
Thứ Ba Tuần II Phục Sinh).
Trong Bài Đọc I hôm nay chúng ta thấy lời tuyên
bố của vị tiền hô Gioan tẩy giả nơi Bài Phúc Âm cùng ngày: "Kẻ bởi
đất mà ra thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất", đã hoàn
toàn ứng nghiệm nơi thành phần thuộc hội đồng đầu mục Do Thái
giáo ở Giêrusalem bấy giờ, được tiêu biểu và đại diện nơi
"Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: 'Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân
danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi
khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên
chúng tôi ư?'".
Trái lại, Bài Đáp Ca hôm nay lại cho chúng ta thấy
"Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai",
ở chỗ, Ngài vẫn đã xót thương đánh động họ khi Ngài sử dụng chính
các vị tông đồ tầm thường vô danh tiểu tốt lại được dân chúng tín phục
hơn là thành phần biệt phái trí thức của Do Thái giáo cùng với thành
phần hội đồng đầu mục Do Thái có chức quyền trong dân. Bài Đáp Ca đã
khẳng định về thân phận của các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi là đối
thủ không đội trời chung của họ, đến độ "họ phẫn nộ và tìm mưu giết
các ngài", nhưng họ vẫn không thể làm gì được bởi: "Chúa gần
gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát.
Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải
thoát" - "Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi
mọi nỗi âu lo".
Thứ Sáu sau
Chúa Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
5, 34-42
"Các ngài hân hoan ra về, vì
thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Ðức Giêsu".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ, có người biệt phái tên là
Gamaliel, cũng là luật sĩ, có thế giá trong dân, đứng lên giữa công
nghị, truyền dẫn các tông đồ ra ngoài trong giây lát, rồi nói với các
người trong công nghị rằng: "Hỡi chư vị Israel, xin hãy thận trọng về
việc chư vị định làm đối với những người này. Vì trước đây ít ngày, có
tên Thêôđa nổi lên, tự xưng là một nhân vật, có độ bốn trăm người theo
mình, y đã bị giết, và nhóm người theo y đều tan rã và không còn gì nữa.
Sau y, lại có tên Giuđa người Galilêa, cũng nổi lên trong những ngày
kiểm tra dân số, lôi kéo dân chúng theo mình, rồi chính hắn cũng chết,
mọi kẻ theo hắn đều tan rã. Và bây giờ, tôi xin chư vị đừng can dự gì
đến những người này, cứ để mặc họ: vì nếu một mưu toan hay việc này là
do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị
không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang tội chống đối Thiên Chúa". Họ
đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra lệnh đánh đòn các ngài, và cấm
tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các
ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình
xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và hằng ngày, tại đền thờ hay
tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Ðức
Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26,
1. 4. 13-14
Ðáp: Có một
điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong
nhà Chúa suốt đời tôi (c. 4ab).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng
cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? -
Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một
điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi,
hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. -
Ðáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn
xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy
sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3,
1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em
sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy kiếm những sự cao siêu
trên trời, nơi Ðức Kitô, đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6,
1-15
"Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia
biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì
họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên
núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái
đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến
với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người
này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc
Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi
người được một chút".
Một trong những môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có
năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu
cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó
có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa
Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn,
và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no
nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi".
Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người
ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm,
người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng Tiên tri phải đến trong thế
gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua,
nên Người lại trốn lên núi một mình.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Sáu trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc
Chúa Giêsu làm phép lạ (lần đầu) hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông
dân chúng theo đuổi Người, một hành động Người làm với sự hợp tác
của các môn đệ, thành phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và
lên trời, đã chứng tỏ mình thực sự được tái sinh thần linh, như
trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, ở chỗ, các
vị càng vui mừng vì được chịu khổ vì Đấng Phục Sinh và cứ tiếp tục
tỏ ra bất khuất trong việc rao giảng và làm chứng cho những
gì các vị đã thấy và đã nghe nơi Người.
Phúc Âm (Gioan
6:1-15):
"Lễ
Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu
ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người.
Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho những người này
ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc
Người sắp làm. Philipphê thưa: 'Hai trăm bạc bánh cũng không đủ
để mỗi người được một chút'. Một trong những môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: 'Ở đây có một bé
trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu
thì thấm vào đâu cho từng ấy người'. Chúa
Giêsu nói: 'Cứ bảo người ta ngồi xuống'. Nơi đó có nhiều cỏ,
người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu
cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi
ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: 'Hãy thu lấy những miếng
còn lại, kẻo phí đi'. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do
năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư."
Bài Đọc I (Tông Vụ 5:34-42):
"'Tôi xin chư vị đừng can dự gì đến những người này, cứ để mặc họ: vì
nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược
bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang
tội chống đối Thiên Chúa'. Họ đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra
lệnh đánh đòn các ngài, và cấm tuyệt đối không được nhân danh Ðức Giêsu
mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị,
lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Và
hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy,
và loan truyền Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô".
Bài Phúc Âm theo
Thánh Ký Gioan hôm nay về phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất được
Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu Tuần II Phục Sinh hôm nay cũng hợp với chủ
đề "sự sống" của chung Mùa Phục Sinh. Mà "sự sống" thì liên quan đến của
ăn chứ không phải chỉ đến người ăn. Nếu người ăn không ăn những món hợp
với mình thì thay vì tẩm bổ và tăng cường sinh lực thì lại bị suy yếu và
nguy hại nữa là đàng khác. Đó là lý do "năm chiếc bánh và hai con cá"
được Chúa Giêsu sử dụng để hóa chúng ra nhiều mà nuôi đông đảo dân chúng
bấy giờ chắc chắn phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó.
Chúng ta hãy trở về với bài Phúc Âm được Thánh Gioan trình thuật về 7
người môn đệ đi đánh cá ở biển hồ Tibêria. "Hai môn đệ
khác" trong bài Phúc Âm này không được Thánh ký Gioan kể đến như 5 tông
đồ khác phải chăng là Anrê, em của tông đồ Phêrô (xem Gioan 1:40-41), và
Philiphê, bạn của Nathanael (xem Gioan 1:43-45), 2 cặp môn đệ đã "đến
và xem chỗ Người ở" (Gioan 1:39), và cũng chỉ có 2 môn đệ này, ở
Phúc Âm phép lạ bánh hóa ra nhiều hôm nay, được Thánh ký
Gioan trong đề cập tới trong việc cung cấp 5 ổ bánh và 2 con cá cho Chúa
Giêsu? Phải chăng 5 chiếc bánh và 2 con cá này có liên quan đến 7 môn đệ
rủ nhau đi đánh cá ở bài Phúc Âm hôm nay, 5 môn đệ có tên liên quan đến
5 ổ bánh và 2 môn đệ không có tên liên quan đến 2 con cá.
Hai con cá Anrê và Philiphê trong bài Phúc Âm hôm nay phải chăng ám chỉ
các ngài cũng là những con cá được Chúa Kitô câu bắt được, giờ đây, phải
được Người nướng lên mới ăn được, như Người đã làm ở bờ biển hồ Tibêria
cho 7 môn đệ bắt được mẻ cá 153 con ăn, nghĩa là phải trở thành hy tế
cho phần rỗi nhân loại, phải chết đi cho dân được sống. Đó là lý do
trong bài Phúc Âm hôm nay, 12 thúng còn dư chỉ thu được từ 5 ổ bánh,
hoàn toàn không thấy nói đến từ cá, vì bánh đây ám chỉ Chúa Kitô, Đấng
được các môn đệ làm chứng bằng hy tế của mình cho loài người nhận biết
Người hơn là chính các vị.
Đúng thế, các con cá tông đồ đều đã được Thày nướng lên cho chín, và các
vị không thể nào để cho Người nướng lên như thế nếu các vị không sống
đức tin, hoàn toàn tin tưởng phó thác trong bàn tay đầy quyền năng của
Người. Mà đức tin liên quan đến tác động "nhìn" hay "thấy" hoặc "gặp",
những tác động cần phải có của đức tin nhưng phụ thuộc vào đức tin hơn
là đức tin phụ thuộc vào chúng. Đó là lý do trong dịp lễ Vượt Qua ở
Giêrusalem, hai môn đệ Philiphê và Anrê này, (chứ không phải các vị
khác, bởi 2 vị này hình như biết tiếng Hy Lạp), đã là những môn đệ trung
gian môi giới được người Hy Lạp ở đó bấy giờ ngỏ ý "chúng tôi muốn
gặp Đức Giêsu" (Gioan 12:20-22).
Thế nhưng, muốn dẫn những ai chưa biết Chúa Kitô và muốn gặp Chúa Kitô
thì chính các môn đệ tông đồ phải cho thấy mình có thế giá đáng tin để
có thể làm việc đó, để có thể đáp ứng lòng khao khát của những tâm hồn
thiện tâm tìm kiếm Người, thậm chí với chính thành phần chống đối các vị
và bách hại các vị như trong Bài Đọc 1 hôm nay, làm sao cho thành phần
đối phương của các vị ấy thấy được con người của các vị và giáo huấn của
các vị là những gì chân thật, xuất phát từ Thiên Chúa:
"vì nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan
rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ
ra mang tội chống đối Thiên Chúa", và vì từ Thiên Chúa và bởi Thiên
Chúa nên sứ điệp được các vị rao giảng và làm chứng mới
tác dụng cứu độ những ai cởi mở và tin tưởng.
Như thế, chứng từ của các vị tông đồ chứng nhân của Chúa Kitô là những
gì chứng tỏ các vị phản ảnh Chúa Kitô, đã được hiệp nhất nên một với
Chúa Kitô, đến đồ Người đã sống trong các vị và qua các vị mà tiếp tục
tỏ mình ra cho dân chúng, làm cho những ai thiện tâm tìm kiếm Người nhận
biết Người mà được cứu độ. Các vị chính là nhân vật ở trong Bài Đáp Ca
hôm nay tỏ ra tin tưởng vào Chúa và thiết tha gắn bó với Chúa, như được
Thánh Vịnh 26 diễn tả như sau:
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù
trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
2) Có một điều tôi xin Chúa, một
điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi,
hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn
xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy
sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa.
Thánh Anselmo (21/4)

ĐTC
Biển Đức
XVI:
Thánh
Anselm: Thần Học Gia, Thày Dạy và Mục Tử.
THÁNH ANSELMÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ
(1033-1109)
"Chúa đã mở miệng Người giảng dạy trong Giáo hội. Chúa đã ban cho
Người đầy khôn ngoan và minh mẫn, đã mặc cho Người áo vinh quang
trên trời". Đó là lời Giáo hội hát mừng trong ngày lễ kính thánh
Giám mục tiến sĩ Anselmô. Lời ca khen trên đây không có gì là quá
đáng, nếu chúng ta tìm hiểu đời sống đạo đức, thánh thiện và lề lối
làm việc đầy khôn ngoan của ngài. Hơn ai hết thánh Anselmô quả xứng
đáng với lời chúc khen trên đây.
Thánh nhân sinh tại Aosta một thành phố nhỏ nằm trên đường ranh giới
xứ Piêmontê và Thụy sĩ. Gia đình thánh nhân thuộc dòng quý tộc. Bà
thân mẫu là người rất đạo đức, nhưng ông thân sinh, trái lại có vẻ
khô khan. Tuy nhiên khi về già, ông đã bỏ thế gian để hiến thân cho
Chúa trong một tu viện.
Anselmô được cha mẹ cho đi học rất sớm. Các bạn học ai nấy đều cảm
phục trí thông minh sắc sảo của Anselmô và khen cậu là người đức
hạnh. Vừa lớn lên Anselmô đã nhận rõ chân tướng của cuộc đời đầy phù
vân giả trá và nguy hiểm. Vì thế năm 15 tuổi, Anselmô đã nhất quyết
bỏ thế gian để đi tu dòng. Nhưng chẳng may ý định bị ông thân sinh
phản đối. Dẫu thế, Anselmô vẫn cương quyết lướt thắng mọi trở ngại
để thực hiện bằng được ý định của mình. Cùng với một người bạn,
Anselmô qua Pháp theo học tại tu viện Bec thuộc các cha dòng Biển
Đức. Trong các môn học, Anselmô thích nhất Thánh Kinh. Đi đôi với
việc dùi mài kinh sử, Anselmô còn đặc biệt chú ý đến việc tập luyện
và trau dồi các nhân đức ngõ hầu trở nên hoàn thiện. Cũng trong thời
gian này, Anselmô cảm thấy tiếng Chúa kêu gọi càng ngày càng mãnh
liệt. Nhưng trước những nẻo đường trọn lành, Anselmô rất do dự không
biết nên chọn gia nhập hàng giáo sĩ địa phận hay đời sống tu trì.
Được tu viện trưởng Lanfranc, giới thiệu, Anselmô đánh bạo tới hỏi ý
kiến Đức Tổng giám mục thành Ruăng (Rouen). Ngài khuyên Anselmô nên
vào tu dòng. Vâng theo lời khuyên của Đức Tổng giám mục, Anselmô xin
vào tu tại tu viện Bec, năm đó Anselmô được 27 tuổi.
Với ơn Chúa và nghị lực của tuổi thanh xuân, Anselmô say sưa công
việc tu thân luyện đức. Không bao lâu, từ miền Nômanđia nước Pháp
đến cả nước Anh, ai ai cũng đều ca tụng nhân đức của thầy Anselmô.
Còn nói chi đến lòng tín nhiệm và kính yêu của toàn thể anh em trong
dòng. Vì thế sau ít lâu, ngài đã được bầu làm bề trên. Từ ngày đó
khách thập phương tuốn đến rất đông hầu được hân hạnh đàm đạo với
thánh nhân. Nhiều người thông thái đạo đức đến xin thụ giáo để được
hạnh phúc sống với sự chỉ dẫn của vị bề trên thánh thiện. Tuy nhiên,
tu viện trưởng Anselmô rất thận trọng trong việc định đoạt và xét
đoán ơn gọi của những người đến gõ cửa. Ngài không ích kỷ để chỉ lôi
kéo nhiều người về cho dòng mình, nhưng hoàn toàn vô tư trình bày
tôn chỉ và luật pháp của mỗi dòng, để các người được Chúa chọn có
thể tự do lựa chọn con đường tu trì thích hợp với hoàn cảnh riêng
biệt của mỗi người. Ngài thi hành chức vị bề trên với một lòng đạo
đức và khôn ngoan hiếm có.
Qua mấy năm sau, thánh nhân phải cấp tốc sang Anh quốc để điều chỉnh
lại mấy việc tại một tu viện bên đó. Nơi đây thánh Anselmô được tiếp
đón rất nồng hậu. Niềm vui sướng của thánh nhân tăng gấp bội khi
ngài được hầu chuyện Đức cha Lanfranc, Tổng Giám mục thành Cantôbêry
và cũng là bề trên cũ của ngài. Đặc biệt hơn nữa là chính vua nước
Anh, một ông vua có tiếng kiêu căng và cứng cỏi, cũng tới đàm đạo
với thánh nhân và hết lòng mến phục ngài. Nhưng rồi lại có những sự
việc không hay xảy đến làm cho thánh Anselmô một lần nữa, phải bỏ tu
viện đi công cán tại Anh quốc. Thời đó vua nước Anh băng hà và
truyền ngôi lại cho con. Vốn tính độc tài, tham nhũng vị tân vương
tìm hết cách áp chế hàng giáo sĩ và chiếm đoạt tài sản của Giáo hội.
Theo lời yêu cầu của nhiều vị cao cấp trong Giáo hội, thánh Anselmô
đã lên đường sang Anh để khuyên bảo nhà vua bỏ ý định trên. Trước
tài lợi khẩu và đức khôn ngoan hiếm có của thánh nhân, vua đổi hẳn
thái độ, tỏ vẻ quyến luyến thánh nhân. Khi Đức Tổng giám mục thành
Cantôbêry tạ thế, nhà vua liền đề nghị thánh Anselmô lên thay. Thánh
nhân được tấn phong làm Tổng Giám mục ngày 4-12-1093 với sự đồng ý
của toàn thể các Đức Giám mục Anh quốc.
Dần dần, tính tham lam cầu lợi chưa được gột rửa sạch lại khiến nhà
vua đổi lòng. Ban đầu vua vồn vã tiếp đãi Đức Tổng giám mục, với hy
vọng sẽ nhận được những món hàng khổng lồ do ngài trao tặng. Ngược
với ý nghĩ của nhà vua, Đức Tổng giám mục lại đem tất cả tài sản của
mình phân phát cho người nghèo khó. Thế là lòng tham lam và hà tiện
đã nổi dậy xúi dục nhà vua thù ghét Đức Tổng giám mục. Nhà vua và
bọn nịnh thần bắt đầu mở chiến dịch vu khống và lăng mạ Giáo hội.
Thấy can ngăn cũng vô ích, thánh Anselmô nghĩ chỉ còn một phương thế
độc nhất để giải quyết vấn đề là ngài tự rút lui. Ngài xin phép nhà
vua về Rôma bái yết Đức Thánh Cha; vua đồng ý ngay cho thánh nhân ra
khỏi nước, với điều kiện là không được trở về nữa. Sau khi đã dặn dò
khuyên răn hàng giáo sĩ địa phận, thánh Anselmô lên đường sang Pháp
lưu trú tại toà tổng giám mục thành Lyông.
Nghe tin Đức Cha Anselmô mới bị trục xuất khỏi Anh quốc, Đức Thánh
Cha mời ngài qua Rôma. Tới giáo đô, thánh Anselmô được tiếp đón rất
nồng hậu. Chính Đức Thánh Cha ban lời khen ngợi lòng can đảm và chí
bất khuất của thánh nhân.
Thánh Anselmô lưu trú tại Rôma một thời gian khá lâu trong tu viện
thánh Biển Đức. Tại đây, nhờ lời cầu nguyện và hy sinh, thánh nhân
đã làm cho từ một tảng đá chảy ra một suối nước trong ngọt. Do đó
người ta đặt tên giếng nước là "Giếng thánh Giám mục thành
Cantôbêry". Thánh nhân cũng được Đức Thánh Cha mời tham dự công đồng
chung Bari. Trong công đồng đó, với tài lợi khẩu và trí thông minh
phi thường, thánh nhân đã thuyết phục được những người Hy lạp cố
chấp; ngài đã minh chứng một cách chính xác và khôn ngoan tín điều
Chúa Thánh Thần do Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất. Sau khi Đức
Thánh Cha tuyên bố rút phép thông công vua nước Anh đồng loã về tội
lăng mạ hàng giáo sĩ và tước đoạt tài sản của Giáo hội, thánh
Anselmô bỏ Rôma trở về lưu trú tại Lyông. Một hôm, ngài được hung
tin cho hay Anh hoàng trong khi đi săn đã bị quân thù ám hại. Được
tin đó thánh nhân rất buồn và lo lắng cho số phận đời đời của nhà
vua.
Anh hoàng băng hà nhường ngôi lại cho em là Henricô I. Vì sợ lòng
dân không phục sẽ nổi loạn, nên ban đầu vua Henricô I muốn ve vãn
Giáo hội để mua chuộc lòng dân. Vua tìm cách nâng đỡ hàng giáo sĩ,
trùng tu các nhà thờ; vua còn cho mời thánh Anselmô về nước vì biết
rằng thánh nhân được dân chúng hoàn toàn tín nhiệm. Nhưng khi hay
tin Đức Thánh Cha đã ký sắc lệnh rút phép thông công vua nước Anh vì
đã xâm phạm tới tài sản Giáo hội, nhà vua rất căm giận thánh
Anselmô. Vua sai sứ giả sang khiếu nại với Toà thánh. Nhưng Đức
Thánh Cha một mực từ chối. Ơn Chúa dần dần làm mềm lòng vua Anh.
Cuối cùng vua đã chịu nhận lỗi và cam đoan tuân theo mọi chỉ thị của
Toà thánh mà trả lại tài sản cho Giáo hội. Nhà vua cũng làm hòa với
thánh Anselmô và triệu mời ngài về địa phận.
Trở về địa phận được một thời gian ngắn, thánh Anselmô bị bệnh đau
dạ dầy rất nặng. Tuổi đã cao, sức đã kiệt, ngài linh cảm thấy giờ
cuối cùng đã tới. Thánh nhân sốt sắng chịu các bí tích sau hết. Ngài
cầu nguyện riêng cho vua và hoàng hậu cùng hoàng tử, các công chúa
và toàn dân Anh được an ninh trường thọ và luôn luôn trung thành với
giới luật Chúa. Sau khi chúc lành cho mọi người có mặt bên giường
bệnh, ngài nhắm mắt từ trần. Hôm đó nhằm ngày 21-4-1109. Ngài hưởng
thọ 76 tuổi.
Đương thời ngài, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ để tuyên dương công
trạng và nhân đức thánh nhân. Lần kia một người bị bệnh phong cùi
được mộng báo phải đến với Đức Cha Anselmô. Người đó ra đi đến tu
viện Béc; Ngài cho ông uống nước rửa tay sau khi làm lễ và tự nhiên
người đó được khỏi bệnh. Có lần lửa đang bốc cháy dữ dội, đe dọa phá
huỷ cả một làng, thánh Anselmô cầu nguyện sốt sắng rồi làm dấu thánh
giá trên đám cháy, lửa liền tắt ngay. Ngoài ra còn nhiều bệnh nhân
mắc đủ mọi chứng bệnh đã đến xin thánh Anselmô cầu nguyện cho và họ
đều được khỏi bệnh cả. Ngoài tài cai trị của thánh nhân, chúng
ta còn phải kể tới tài văn chương, triết lý của ngài. Người ta có
thể nói thánh Anselmô là một học giả lỗi lạc đã đề cập tới nhiều vấn
đề mà trước ngài chưa ai nghĩ tới, nhất là những vấn đề thần học.
Thánh nhân đã viết nhiều cuốn sách rất có giá trị làm giầu cho kho
tàng giáo huấn và thư viện của Giáo hội. Thật ngài quả xứng đáng với
danh hiệu là tiến sĩ của Giáo hội.
Để kết thúc, chúng ta mượn lời vị tu viện trưởng Trithêmô vẽ lại
hình ảnh vị Thánh Giám mục tiến sĩ bằng mấy giòng sau: "Thánh
Anselmô có một bộ mặt thần, một dáng đi bệ vệ, một cuộc sống thánh
thiện, thông thạo khoa học phần đời, làu thông Kinh Thánh và là
gương mẫu mọi nhân đức".
http://giaophanvinhlong.net/thanh-anselmo.html
Giám mục, Tiến Sĩ (1033 - 1109)
Thánh Anselmô chào đời năm 1033 tại Aosta, trong một gia đình
quí phái. Mẹ ngài, một người rất đạo đức lãnh trách nhiệm huấn
luyện ngài theo đàng nhân đức. Từ nhỏ, ngài đã được theo học
những bậc thầy danh tiếng. Bởi thế, ngài đã mau mắn tiến triển
cả về học vấn lẫn đức hạnh. Vào tuổi 15, thánh nhân đã biết chán
ghét danh vọng giả trá thế trần và quyết theo đuổi đời sống tu
trì, nhưng cha ngài chống lại ý muốn này, thánh nhân buồn rầu
ngã bệnh. Nhiệt tình theo đuổi đời sống tu trì không kéo dài bao
lâu, nhất là bà mẹ đạo đức qua đời.
Anselmô rơi vào tình trạng nguội lạnh, nhiệt tình tuổi trẻ bị
lôi cuốn vào những hấp dẫn thế trần. Cho đến lúc này, Anselmô
vẫn còn thần tượng của cha ngài, nhưng Thiên Chúa đã tha phép
cho tình âu yếm của ông biến thành cay cú, đòi hỏi và cứng cỏi,
đến nỗi Anselmô đã phải bỏ nhà trốn đi. Ngài từ giã không phải
khỏi nhà cha mẹ mà thôi, nhưng còn bỏ luôn quê hương xứ sở cho
tới tận miền Bourgogne. Tại đây, ngài lấy lại nhiệt tình ban
đầu. Ba năm sau, ngài đến thụ huấn với tu viện trưởng Lanfrane ở
Bec.
Một ngày kia, Anselmô xét thấy mình đã khổ cực để nên thông thái
nhiều hơn là để nên đạo đức. Ngài đến quì dưới chân thầy và nói
:
-
Con có ba đường để theo : hoặc là trở thành tu sĩ ở Bec, hoặc
sống ẩn tu, hoặc ở giữa thế gian để phân phát cho người nghèo
gia sản của cha con để lại.
Đức Tổng Giám mục giáo phận Rouen khuyên ngài theo đuổi đời sống
tu trì. Thế là Anselmô gia nhập tu viện Bec. Lúc ấy ngài được 27
tuổi, ngài đã dồn nỗ lực để nghiên cứu thần học và đời sống
khiêm tốn vâng phục. Năm 1072, Đức Đan viện phụ Lanfrane được
đặt làm Tổng Giám mục Canterbury. Anselmô được cử lên thay thế
làm tu viện trưởng rồi làm Đan viện phụ.
Sự đơn sơ và nhân hậu của ngài đã đánh tan mọi ghen tương nghi
kỵ. Hơn nữa sự thánh thiện và trí thông minh của thánh nhân đã
khiến cho ngài trở thành danh tiếng không những đối với các vị
vua Chúa và các Đức Giám mục mà cả với thánh Giáo Hoàng Grêgôriô
nữa. Tu viện Đức Bà ở Bec trở thành nơi trung tâm của phong trào
trí thức thế kỷ XI năm 1087. Vua William I nước Anh từ trần.
William Rufus lên kế vị. Nhà độc tài này không muốn có những chủ
chăn mới và sang đoạt được nhiều tài sản của Giáo hội, nên khi
Đức Tổng Giám mục Lanfrane qua đời, Tòa Giám mục Canterbury bị
trống ngôi, năm 1093 khi thánh Anselmô viếng thăm Anh quốc,
Rufus trong cơn trọng bệnh đã xin thánh nhân lãnh nhiệm vụ cai
quản Giáo phận Canterbury. Thánh nhân đã từ chối, nhưng rồi cũng
phải lãnh nhận vì sự nài nỉ của các Giám mục và nhất là vì sự
chỉ định của Đức Giáo Hoàng Urbanô II.
Nhưng rồi khi nhà vua bình phục, ông hối tiếc vì việc sám hối
của mình. Khi bị Đức Anselmô buộc phải nhận quyền của Đức
Urbanô, ông đã gây áp lực để truất phế Đức Tổng Giám mục. Đức
Giáo Hoàng không nhận những giáo dân có thế giá cho biết sẽ
không tha thứ cho việc truất phế thánh nhân, nhưng rồi năm 1097,
sau nhiều cuộc cãi vã liên tục và vô hiệu, thánh Anselmô tự ý
xin đi lưu đày, Rufus ưng thuận.
Thánh Anselmô trở về Rôma và được khen ngợi vì sự can đảm của
ngài sau khi tham dự cộng đồng Bari và Rôma. Thánh nhân tìm về
đời sống tu viện tại dãy núi Apennins. Nơi đây ngài hoàn thành
tác phẩm : tại sao Thiên Chúa làm người. Ngài tuân thủ từng chi
tiết của lề luật như một tập sinh. Ngài nói :
- Cuối cùng tôi gặp được chốn nghỉ ngơi.
Năm 1100, Rufus qua đời trong một cuộc đi săn. Henri em vua lên
kế vị, nhà vua mới triệu vời vị Tổng Giám mục trở về Giáo phận.
Năm 1106 ngài trở về điều khiển Giáo hội tại Anh quốc.
Trải qua biết bao thăng trầm thánh nhân vẫn giữ được tâm hồn
bình lặng. Ngài không bỏ qua công cuộc tìm kiếm thần học. Bởi
đó, ngài đã thành chiến sĩ đầu tiên của Giáo hội sau những thế
kỷ đen tối. Luận chứng của ngài nhằm chứng minh sự hiện hữu của
Thiên Chúa nay vẫn còn được biết đến. Thần học của ngài là một
phần linh đạo đặt trên sự cảm thông với những đau khổ của Chúa
Kitô.
Với tư cách Tổng Giám mục Canterbury ngài đã chấm dứt việc bôi
nhọ các thánh quê mùa của nước Anh quốc và góp phần khơi dậy cảm
tình những gì truyền thống nước Anh từ xưa để lại. Đây là việc
làm có giá trị lâu bền vì sửa lại được tình cảm phân rẽ và cuộc
chinh phục của William gây nên.
Năm 1109, thánh Anselmô qua đời. Một con người đã luôn biết tìm
kiếm Chúa.
- Tôi không tìm hiểu để tin nhưng tin để mà hiểu biết, cuối cùng
ngài đã tìm về được ánh sáng vĩnh cửu.
Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý - Theo Vết Chân Người
https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-anselmo---giam-muc-tien-si-1033-1109-1249.html
Là một thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên một
trong những nhà lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài
có danh xưng “Ông Tổ Phái Kinh Viện” vì những cố gắng phân tích và
làm sáng tỏ các chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.
Thánh Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc
Piedmont. Ngài được người mẹ đạo đức chăm sóc và dạy dỗ về giáo lý,
và ảnh hưởng tốt đẹp ấy đã kéo dài suốt cuộc đời ngài.
Khi 15 tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì
người cha phản đối. Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ
tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như
lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ba năm sau
ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm
viện phụ.
Ðược coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Ðức Anselm được mọi
người thán phục vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài.
Quả thật, ngài hiểu biết nhiều về thực chất và sự đam mê của con
người đến độ dường như ngài đọc được tư tưởng và hành động của họ,
bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật xấu của họ và khuyên
bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài, Ðan Viện Bec
trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy triết
học và thần học thời ấy.
Trong những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Ðức Anselm bắt
đầu công bố các công trình thần học của ngài, có thể sánh với các
văn bản của Thánh Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là
cuốn Cur Deus Homo (“Tại Sao Thiên Chúa Làm Người”).
Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Ðức Tổng Giám Mục của Canterbury
vào năm 1093, trái với ý muốn của ngài. Việc bổ nhiệm ngài, lúc đầu
bị vua nước Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp
nhận. Rufus cố chấp từ chối cộng tác với các nỗ lực cải cách Giáo
Hội.
Sau cùng Ðức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm
1100. Ngài được gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị
Rufus. Tuy nhiên, Ðức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua
nhúng tay vào các vấn đề của hàng Giám mục, do đó ngài lại phải đi
lưu đầy ba năm ở Rôma.
Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ðức Anselm còn để ý và lo lắng
cho người nghèo. Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối
việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Ðồng Quốc Gia Westminster thông
qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Ngài từ trần ở
Canterbury, Anh Quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494.
Thánh Anselm, cũng như bất cứ môn đệ trung kiên nào khác của Ðức
Kitô, đã phải vác thập giá của mình, nhất là dưới hình thức
chống đối và xung đột với những người đang nắm quyền chính trị.
Mặc dù bản tính là một người hiền hòa và yêu chuộng hòa bình,
Thánh Anselm không nhượng bộ trước sự đàn áp và mâu thuẫn với
các nguyên tắc đang bị đe dọa.
“Trên thiên
đàng không ai có sự khao khát nào hơn là thánh ý Thiên Chúa; và
sự khao khát của một người sẽ là sự khao khát của mọi người; và
sự khao khát của mọi người cũng như mỗi người sẽ là sự khao khát
của Thiên Chúa” (Thánh Anselm, Opera Omnis, Thư 112).
https://hddmvn.net/21-thang-tu-thanh-anselmo/
Thứ Bảy sau Chúa
Nhật II Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv
6, 1-7
"Họ chọn bảy người đầy Thánh
Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia
tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì
trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm
họ. Nên Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ
việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa
anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy
Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng
tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa". Cả đoàn thể đều
tán thành lời các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh
Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở
Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu
nguyện và đặt tay trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở
Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32,
1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa,
xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa
(c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân
hoan trong Chúa, ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen
Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính,
bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính
trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ
kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ
họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.
Alleluia: Ga
19, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha
mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng
Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6,
16-21
"Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt
biển".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu
xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum.
Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi
lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi
dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ
hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định
rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.
Ðó là lời Chúa.

Cảm Nghiệm
Chủ đề
"Thày là sự sống" của ngày Thứ Bảy trong
Tuần II Phục Sinh về
khía cạnh "Sự Sống - Tái Sinh Thần Linh" được
tỏ hiện trong bài Phúc Âm qua việc
Chúa Giêsu đi trên biển đến với các tông đồ đang sang bên kia bờ và bị
sóng gió trong đêm tối,
một hành động Người làm để
củng cố đức tin cho các vị, để từ từ các vị được Người tái sinh thần
linh, thành
phần mà, sau khi Người sống lại từ cõi chết và lên trời, còn được
rửa trong Thánh Linh nữa, như
trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy, chỉ
"chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa"
là những gì chính yếu trong sứ vụ và thừa tác
vụ mục tử của các vị.
Bài Đọc I (Tông
Vụ 6:1-7):
"Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên
xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc
phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên
Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: 'Chúng tôi bỏ việc rao
giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em,
anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần
và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ
chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa'. Cả đoàn thể đều tán thành lời
các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn
Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ
đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay
trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng
rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin".
Phúc Âm (Gioan
6:16-21):
"Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền,
sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu
vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi
chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa
Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng
Người nói với họ: 'Chính Thầy đây, đừng sợ'. Họ định rước Người lên
thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới".
Trong bài
phúc âm
hôm nay, chúng ta thấy hoàn toàn hợp với đời sống đức tin tu đức của
Kitô giáo chúng ta nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng:
Trước
hết, sự kiện "trời
đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ" quả
thực là tình trạng mỗi khi vắng bóng Thiên Chúa, nhất là khi chúng
ta tìm kiếm Ngài mà chẳng thấy Ngài đâu, ngược lại Ngài lại tự ẩn
mặt đi hay cố ý khuất dạng khỏi cảm giác hay lý trí của chúng ta, chúng
ta cảm thấy lẻ
loi cô độc và sợ
hãi.
Sau nữa,
sự kiện "bỗng
cuồng phong thổi lên, biển động mạnh" là
sự kiện lưỡng diện cho thấy, trước hết, đối với nạn nhân trong cuộc
thì thật là bất hạnh và nguy
hiểm, mà
thường bao giờ không có Chúa, như ở trong tối tăm đức tin thì thế
nào cũng gặp "ma", gặp thử thách và cám dỗ, tuy nhiên, đối
với chính Đấng muốn tỏ mình ra thì đó lại là sự kiện báo trước việc
Ngài sắp xuất hiện, như các hiện tượng thiên nhiên (sấm xét. chớp
sáng, động đất, lửa cháy v.v.) trước mỗi cuộc thần
hiển của
Thiên Chúa trong hành trình về Đất Hứa của Dân Do Thái. Bởi thế,
ngay sau sự kiện "bỗng
cuồng phong nổi lên, biển động mạnh" thì "Chúa
Giêsu đi trên mặt biển tiến lại gần thuyền".
Sau hết,
sự kiện "họ
định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ
định tới" cho thấy,
một khi có sự hiện diện của Chúa thì mọi sự trôi chảy và linh hồn
cảm thấy tiến nhanh trên đường nhân đức, nhất là sau mỗi lần thắng
vượt được thử thách,
nhờ đó đức
tin càng mạnh và đời sống siêu nhiên càng tăng trưởng lạ lùng ngoài
sức tự nhiên cố gắng trước đó mãi mà hầu như vẫn
dậm chân tại chỗ.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay chúng ta cũng thấy diễn ra một trường hợp
tương tự như Bài Phúc Âm hôm nay, đó là cộng đoàn Giáo Hội sơ khai
bấy giờ, sau 2 bài giảng của tông đồ đoàn được đại diện bởi vị lãnh
đạo Tông đồ Phêrô, nhờ ơn Chúa đã được thiết lập, như thể một con
thuyền được Chúa sai sang bờ bên kia của thế giới loài người, thì bị
một cuộc khủng hoảng xẩy ra:
"Trời đã tối... Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh",
đó là: ''xảy
ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc
phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ".
Thế rồi sau đó mọi sự đã được giải quyết, vì
Chúa Kitô là Đầu của Giáo Hội bất khả phân ly với thân mình của
Người là Giáo Hội: "Thày sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế" (Mathêu 28:20), do đó, như Bài Phúc Âm cho thấy: "Khi
chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa
Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng
Người nói với họ: 'Chính Thầy đây, đừng sợ'. Họ định rước Người lên
thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới", và
vì thế nên Bài Đọc 1 lại được tiếp diễn như sau: "Họ đưa mấy vị
đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên
các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất
nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin".
Sở dĩ mọi sự đã được giải quyết tốt đẹp, liên quan đến cả trường hợp
của các tông đồ một mình chèo sang bờ bên kia bị phong ba bão tố
giữa đêm khuya trong Bài Phúc Âm, cũng như trường hợp của cộng đoàn
Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem đang có mầm mống chia rẽ trong Bài Đọc
1 hôm nay, là nhờ bởi, trước hết và trên hết, Chúa Kitô Phục Sinh,
Đấng đã chọn gọi các tông đồ để làm chứng cho Người và cũng là Đấng
đã thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người cho
đến khi Người lại đến trong vinh quang; tuy nhiên, về phía các tông
đồ và cộng đoàn Giáo Hội, vẫn phải làm sao sống đúng với ơn gọi và
sứ vụ của mình nữa.
Trong trường hợp của các tông đồ ở Bài Phúc Âm, các vị chỉ vì vâng
lời Thày mà sang bờ bên kia trước, dù các vị không được Thày cùng đi
với các vị, và trong Bài Đọc 1 các vị vẫn trung thành với việc rao
giảng chính yếu của các vị: 'Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời
Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ". Thái độ và hành
động của các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội như thế quả
thực cho thấy các vị là thành phần "Người hiền đức" và "kính sợ
Chúa", như Thánh Vịnh 32 đã đề cập đến ở trong
Bái Đáp Ca hôm nay:
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, ca ngợi là việc của
những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười
dây, hãy xướng ca mừng Chúa.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính,
bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính
trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ
kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ
họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Xin xem thêm: Phụng
Vụ Lời Chúa - Những Nét Chính Yếu của Mùa Phục Sinh trong Sách Tông Đồ Công
Vụ