Chúa Nhật
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Hc 27,
33 - 28, 9
"Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi,
thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha".
Trích sách Huấn Ca.
Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng
ghê tởm, người có tội đều mắc cả hai. Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù,
và Chúa nghiêm trị tội lỗi nó. Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì
khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người
kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với
nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao? Nó là xác thịt mà tích lòng
thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?
Ngươi hãy nhớ đến điều sau hết, và
chấm dứt hận thù: hãy nhớ đến sự hư nát và sự chết, hãy trung thành với các
giới răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến
giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102,
1-2. 3-4. 9-10. 11-12
Ðáp: Chúa là Ðấng
từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (c. 8).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc
tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn
tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai
lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong
thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Người không chấp tranh triệt để,
cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng
tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.
4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt
trên trái đất, lòng nhân hậu Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ
Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi
chúng tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 14,
7-9
"Dù chúng ta sống hay chết, chúng
ta đều thuộc về Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín
hữu Rôma.
Anh em thân mến, không ai trong anh em
được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là
sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy, dù sống hay chết,
chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là
để cai trị kẻ sống và kẻ chết.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b
và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời
của Chúa là thần trí và là sự sống, Chúa có lời ban sự sống đời đời. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18,
21-35
"Thầy không bảo con phải tha đến
bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu
rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy
lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải
tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng
giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn
đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên
chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy
tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất
một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả
tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người
bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho
ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho
tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn
tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó,
rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y
đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì
ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta
đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả
hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các
con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh
em mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cho vay nợ ăn lời Lòng Thương Xót Chúa: 100 bạc lời 10 ngàn nén bạc
Có thể nói nội dung và ý nghĩa của tất cả phần Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa
Nhật XXIV Thường Niên Năm A hôm nay ở ngay câu mở đầu cho bài Đọc 2: "không
ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình". Tại sao
thế? Tại vì, chúng ta được Thiên Chúa thương xót thì cũng phải thương xót
như Ngài,
đúng như Lời Chúa Kitô nhắc nhở và khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Ta
đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?"
Thật vậy, nếu Kitô hữu nhận biết mình là một tạo vật vô cùng hèn hạ và khốn
nạn, lại còn tội lỗi đáng bị trừng phạt hơn là được tưởng thưởng, vì họ lập
công thì vừa ít lại vừa hiếm và chẳng ra sao mà phạm tội vừa nhiều, vừa lớn và liên lỉ,
mà tội lỗi họ phạm
đến Thiên Chúa là Đấng vô cùng là một món nợ không thể nào tự mình họ có thể
thanh toán nổi và bù đắp cho cân xứng, chẳng khác gì như trường hợp được
Chúa Giêsu nhắc đến trong Bài Phúc Âm hôm nay: "một
người mắc nợ mười ngàn nén bạc... không có gì trả", cho dù có đánh đổi
chính bản thân họ cùng với những gì yêu quí nhất của họ: "bán y, vợ con
và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", họ cũng không thể trả hết nợ,
vì tất cả chỉ ở tầm mức giá trị tạo vật hữu hạn tầm thường chẳng là gì.
Tuy nhiên, theo phép công bằng con nợ vẫn
phải làm sao để trả cho bằng được một khi bị chủ nợ đòi, nếu chưa
trả nợ được ngay và hết thì ít là xin chủ nợ cho khất nợ, như Bài Phúc Âm
hôm nay cho thấy: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả
cho ngài tất cả". Lạ lùng thay, chỉ cần một lời van xin khất nợ như
thế, chứ không phải xin tha nợ, mà chủ nợ lại quá bao dung rộng lượng đến độ
chẳng những không để cho con nợ khất nợ mà còn tha ngay cho con nợ món nợ
kếch sù bất khả thanh toán của con nợ nữa.
Thực tế cho thấy, về phía Thiên Chúa, Ngài luôn
tha thứ cho con người bất toàn, yếu đuối và tội lỗi chúng ta, thậm chí ngay
cả trước khi chúng ta phạm tội, chưa xưng tội, như thái độ của người cha tỏ
ra với đứa con phung phá ngay trước khi nó ngỏ lời xin lỗi cha nó (xem Luca
15:20), nhưng về phần tội nhân cũng phải tỏ lòng thống hối ăn năn, trước khi
công khai và chính thức lên xưng tội để được tha tội (xem Luca 15:18-19).
Tuy nhiên, vì tội nhân chắc chắn sẽ không thể nào hoàn toàn tránh được hoàn
toàn và mãi mãi tội lỗi nói chung, kể cả tội đã xưng để được tha ấy, nên
việc xưng tội của họ vẫn có tính cách khất nợ, nghĩa là họ vẫn cứ tiếp tục
trả nợ, vẫn không thôi xưng tội hết lần này đến lần khác, cho tới chết, để
được tha tội.
Thế mà, tấm lòng vô cùng nhân hậu và bao dung tha thứ của chủ nợ lại trở
thành vô giá trị và bất tác dụng nơi con nợ bất khả trả nợ nhưng đã được tha
bổng nợ nần ấy. Ở chỗ, con nợ chỉ biết hưởng thụ lòng thương xót của chủ nợ
mà không phục vụ là thương xót anh chị em phạm đến họ. Trong khi họ là loài
người thì những ai phạm đến họ, cũng là loài người như họ, cũng ở tầm mức
thụ tạo như nhau, cũng chẳng đáng là
bao, chỉ đáng "một trăm bạc", so với "mười
ngàn nén bạc" mà họ nợ chủ nợ của họ.
Ấy thế mà, con nợ được chủ nợ vô cùng bao dung tha
cho đã quá ư là hung bạo
"tóm lấy, bóp cổ", đòi phải
trả nợ cho hắn ngay lập tức tất cả số nợ nhỏ mọn ấy:
"Mày phải trả nợ cho tao",
cho dù con nợ đáng thương của hắn cũng tỏ ra cùng một cử chỉ
"sấp
mình dưới chân và van lơn" và cùng một câu nói giống hệt
như hắn đã tỏ ra với vị chủ nợ nhân hậu của hắn: "Xin vui lòng cho tôi
khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh".
Trong khi hắn chỉ khất nợ mà được chủ nợ tha hết nợ cho thì đối với con nợ
của mình, cho dù con nợ này cũng xin khất nợ với hắn để từ từ trả cho hắn, chứ không
quịt nợ hắn hay xin hắn tha nợ cho, thì hắn lại bất chấp, không chịu, trái
lại, hắn còn
"bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong". Kitô
hữu nào chấp nhất anh chị em mình, thì cũng giam nhốt anh chị em của mình
trong cõi lòng hẹp hòi chấp nhật của mình, bởi thế lúc nào họ cũng cảm thấy nặng mình, khó chịu,
bất an v.v., cho đến khi họ tha thứ cho anh chị em họ, lúc họ, họ nhẹ mình hơn lúc nào
hết.
Như thế, những ai nhỏ mọn chấp nhất anh chị em phạm đến mình, không chịu tự
động tha cho con nợ của mình, nghĩa là, theo tinh thần của Chúa Kitô, nạn
nhân phải tự động đi làm hòa với phạm nhân, thì chẳng những họ nhốt anh chị em mình
trong lòng họ mà còn nhốt chính họ ở trong đó nữa, đúng như lời Chúa Giêsu
cảnh báo họ:
"Vậy,
vào lúc các con sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em
phạm đến các con, thì hãy để của lễ lại đó
trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật
của mình. Các con hãy mau mau dàn xếp với đối
phương (ám chỉ với con nợ của mình bằng việc làm hòa trước), khi
còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công (ám chỉ khi còn sống,
trước khi chết và ra tòa phán xét của Thiên Chúa), kẻo người ấy nộp các
con cho quan tòa (ám chỉ cho Lòng Thương Xót Chúa đã thương họ là con
nợ tội nhân đã phạm đến Ngài), quan tòa lại giao các con cho thuộc hạ
(ám chỉ luật công bằng một khi được Chúa là chủ nợ của mình thương thì
cũng phải biết thương con nợ của mình), và các con sẽ bị tống ngục
(ám chỉ bị nhốt trong ngục thất của lòng vị kỷ bé mọn hẹp hòi chấp nhất của
mình). Thầy bảo thật cho các con biết: các con sẽ
không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng (ám chỉ việc chủ
nợ hoàn toàn tha nợ cho con nợ của mình, không chấp nhất con nợ của mình một
tí gì nữa, dù con nợ ấy không xin mình tha cho và đã cố tình xúc phạm đến
mình)". (Mathêu 5:23-26).
"Người ấy nộp các con cho quan tòa, quan tòa lại giao các con cho thuộc
hạ, và các con sẽ bị tống ngục" quả thực đã xẩy ra đúng như thế, như
cho "tên đầy tớ độc ác" trong dụ
ngôn được Chúa Kitô nói đến ở phần cuối của Bài Phúc Âm hôm nay. Ở chỗ: tuy
con nợ của "tên đầy tớ độc ác" này không trực tiếp đích thân nộp
hắn "cho quan tòa", nhưng hoàn cảnh đáng thương của con nợ ấy đã
được trình lên chủ nợ của "tên đầy tớ độc ác" ấy biết: "Các bạn
y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu
truyện".
Nên "tên
đầy tớ độc ác"
này đã bị chủ nợ là "quan
tòa lại giao các con cho thuộc hạ":
"Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Ở
đây, chúng
ta thấy 2 chi tiết cuối cùng hơi khác: 1- trong khi
"tên đầy tớ độc ác"
"bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả
nợ xong", thì
chủ nợ của
hắn lại không tống hắn vào ngục, mà chỉ "trao y
cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Vì Lòng Thương Xót Chúa không giam nhốt ai bao giờ, dù họ xấu xa gian ác mấy
chăng nữa, như tấm lòng hẹp hòi chấp nhất của loài người
thích giam nhốt các con nợ của mình; 2- Tuy nhiên con nợ bất công ấy lại bị
chủ nợ thay vì nhốt vào ngục thì "trao y cho lý hình hành hạ",
nghĩa là bắt con nợ "độc ác" ấy bị công lý của Vị Thiên Chúa vô
cùng nhân hậu xót thương "hành hạ": "Ta đã tha hết nợ cho
ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn
ngươi như ta đã thương ngươi chứ?"
Trường hợp của "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn tha nợ của Bài
Phúc Âm hôm nay quả thực đã ứng nghiệm lời Sách Huấn Ca ở Bài Đọc 1 cùng
ngày: "Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù, và
Chúa nghiêm trị tội lỗi nó....". Thế nhưng, muốn tha thứ và không báo
oán nhau, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy như thế này: "Hãy nhớ đến giao ước
của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác". Nghĩa là hãy
nhớ rằng mình cũng là con nợ và đã được Thiên Chúa thương xót thế nào thì
cũng phải thương nhau như vậy, bằng không, chúng ta vẫn con nặng nợ Thiên
Chúa nếu chúng ta cứ nằng nặc bắt nợ nhau cho đến cùng: "Cha Ta trên
trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết
lòng tha thứ cho anh em mình".
Tại sao con nợ ""độc ác" quá ngu xuẩn dại dột đến như thế, ở chỗ
chỉ mất có 100 bạc để đánh đổi chiếm được cả 10 ngàn nén bạc, không chịu, để
rồi, chỉ vì lòng tham vô đáy, chẳng những muốn hoan hưởng 10 ngàn bạc khổng
lồ mà còn thêm cả 100 bạc quá ứ là nhỏ mọn nữa, nên mới mất cả chì lẫn chài. Phải nói là
thảm thương và đáng thương không thể nào tưởng tượng nổi, thậm chí là ngu
đần, khờ dại và điên cuồng quá sức. Nguyên nhân sâu xa chỉ vì bản thân của con nợ này chưa thật
sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa đối với họ, chưa nhận biết mình là
tội nhân vô cùng đáng thương hơn bất cứ ai khác, đến độ không dám ném đá ai
ngoài chính mình, nên vẫn mù quáng đến độ trong khi bản thân họ được Chúa thương
tha cho nhưng họ vẫn không
thấy được cái giá trị vô cùng cao quí của Lòng Thương Xót, như cảm nghiệm thần
linh về Vị "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương
xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân" (Câu Họa Đáp Ca Chúa Nhật
này) được Thánh Vịnh gia bày tỏ trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc
tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên
mọi ân huệ của Người.
2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật
nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng
mão từ bi, ân sủng.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn.
Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo
điều oan trái chúng tôi.
4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân hậu Người
còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa
vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi.
Thứ
Hai
Phụng
Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 2, 1-8
"Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi
người. Ngài muốn mọi người được cứu độ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin,
khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những
bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức
và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên
Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.
Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con
người. Người đã phó Mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng
tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao
giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân
ngoại trong đức tin và chân lý.
Vậy cha muốn rằng những người đàn ông
cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và
cạnh tranh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 27, 2.
7. 8-9
Ðáp: Chúc tụng
Chúa, bởi Ngài đã nghe tiếng tôi van nài (c. 6).
Xướng: 1) Xin nghe tiếng con van nài,
khi con kêu cầu tới Chúa, khi con giang tay hướng về thánh điện của Ngài. -
Ðáp.
2) Chúa là mãnh lực và là khiên thuẫn
của tôi, lòng tôi tin cậy vào Ngài và đã được Ngài cứu trợ, bởi thế tâm hồn
tôi hoan hỉ và tôi xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Chúa là mãnh lực của dân Ngài, là
chiến lũy bảo vệ mạng sống người Chúa đã xức dầu. Xin cứu sống dân tộc và
chúc phúc cho phần gia nghiệp Chúa, xin hãy chăn nuôi họ, vinh thăng họ tới
muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 18
Alleluia, alleluia! - Do ý định của
Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của
đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 1-10
"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng
thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân
chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ
thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão
Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van
xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến
dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với
họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy
người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì
tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng
đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành
mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính
dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó
lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và
quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả
trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những
người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài
Phúc Âm cho Thứ
Hai Tuần
XXIV Thường Niên hôm nay là bài tiếp ngay sau Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần
trước, tức ngay sau bài giảng về việc sống Lòng
Thương Xót như
Cha trên trời.
Đó là lý do, mở đầu bài Phúc Âm hôm
nay đã có câu móc nối một cách mạch lạc như sau: "Sau
khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giêsu vào thành
Carphanaum". Qua câu
mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu huấn dụ về việc sống
Lòng Thương Xót đây chẳng những trực tiếp cho thành phần tông đồ môn đệ
của Người khi "ngước
mắt lên nhìn các môn đệ và nói" (Luca
6:20), mà
còn cho cả dân chúng ở chung quanh các vị nữa: "Tại
đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđêa,
Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tyro và Sidon đến để nghe Người giảng" (Luca
6:17-18).
Nếu đối với các tông đồ môn đệ của mình,
Chúa Giêsu chú trọng tới giáo huấn thế nào, như Người đã huấn dụ các
vị ở Bài Giảng Phúc Đức
Trọn Lành Trên Núi (xem Mathêu các đoạn 5-7), hay ở Loạt Dụ Ngôn về Nước
Trời, nhất là về ý nghĩa sâu nhiệm của một số dụ ngôn Người giải thích riêng
cho các vị (xem Mathêu đoạn 13), hoặc ở Bữa Tiệc Ly (xem Gioan các đoạn
14-17), thì đối
với chung dân chúng Người
chú trọng đến việc chữa lành cho họ hơn, vì đó là nhu cầu của họ và đó cũng
là nhu cầu tỏ mình ra của Người là Đấng Cứu Thế nơi họ nữa.
Thật
ra phép lạ chữa lành này của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã được
bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại và được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ
Bảy Tuần XII Thường Niên rồi (Phụng
Vụ Lời Chúa - Tuần XII Thường Niên). Sở
dĩ Giáo Hội muốn đọc lại câu chuyện chữa lành này có thể là vì bài Phúc Âm
hôm nay được
Giáo Hội chọn đọc
cùng với một bài đọc Tân Ước, chứ không phải bài đọc Cựu Ước như lần trước.
Thực vậy,
trong Bài Đọc
1 hôm nay, khi viết cho người môn đệ Timôthêu của mình ở đầu bức thư thứ
2, Thánh Phaolô đã đề cập đến: 1- ý của Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi
người, tức bao gồm cả dân ngoại nữa chứ
không phải chỉ có dân Do Thái thôi, và
2- đâu là chân lý cứu độ mà con người cần phải nhận biết và chấp
nhận để được cứu độ. Thánh Phaolô đã khẳng định về 2 yếu tố cứu độ then chốt
này như sau:
"Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn
cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng
ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều
tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có
một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức
Giêsu Kitô, Đấng
đã tự hiến làm giá chuộc mọi người".
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, nhân vật ngỏ ý xin Chúa Giêsu chữa lành chẳng những là một
người dân ngoại mà còn là một trong "những
người cầm quyền" (Bài Đọc
1), với
vai trò là "một
viên đại đội trưởng" (Bài
Phúc Âm), nhưng
lại là một viên đại đội trưởng vừa thương người vừa khiêm tốn.
Viên đại đội trưởng này thương người ở
chỗ ông đã lưu tâm đến một trai đầy tớ đang hấp hối trong nhà lúc bấy
giờ và đã từng giúp đỡ dân chúng đến độ được dân mến thương: "Một
viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý
người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người
Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. Họ đến gặp Đức Giê-su
và khẩn khoản nài xin Người rằng : 'Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn
cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng
ta'".
Khiêm tốn ở chỗ tự cảm thấy bất xứng
nên không dám đến gặp Chúa và cũng không đáng được Chúa đặt chân vào tệ
xá của ông: "Đức
Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì
ông này cho bạn hữu ra nói với Người: 'Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá
như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không
nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ
của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng
có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: 'Đi !' là nó đi ; bảo người
kia : 'Đến !' là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : 'Làm cái này !' là nó
làm".
Đức bác ái và lòng khiêm tốn của
viên đại đội trưởng có thẩm quyền này quả thực đã
cho thấy đức tin của ông ta vào Thiên Chúa, cho dù ông thuộc thành phần dân
ngoại, một đức
tin chưa chắc dân Do Thái đã có, một đức tin cứu độ. Đó là lý do Chúa
Giêsu đã không thể nào không hết lời khen ông ta ngay trước
mặt dân Do Thái rằng:
"Nghe
vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo
Người rằng: 'Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng
chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế'. Về đến nhà, những người
đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn".
Ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên người môn đệ Timôthêu của ngài "hãy
cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất
cả những bậc vị vọng". Tại sao? Tại vì, như chính ngài
tiếp tục cho biết: "Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng
Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến
nhận biết chân lý". Trong đó, có viên sĩ quan Roma ngoại
giáo trong bài Phúc Âm hôm nay, một con người dù không phải là tín đồ Do
Thái giáo, thành phần vốn được Thiên Chúa tuyển chọn và tỏ mình ra cho, lại
có một đức tin còn hơn cả dân Chúa, như chính Chúa Kitô đã phải lên tiếng
khen tặng vị này trong bài Phúc Âm hôm nay.
Viên sĩ quan ngoại giáo của đế quốc Roma này, như bài Phúc Âm hôm nay cho
thấy, vừa khiêm tốn lại bác ái vị tha, đã tin tưởng vào Chúa Kitô là Đấng có
thể cứu chữa người đầy tớ Do Thái trong nhà của ông, đến độ Người không thể
không ra tay chữa lành cho người đầy tớ của ông, đồng thời cũng là dịp để
Người tỏ mình ra cho ông, vì Thiên Chúa là Đấng đã sai Người "muốn cho
mọi người được cứu rỗi (bởi Người) và đến
nhận biết chân lý (là Người, là tình yêu thương của Thiên
Chúa nơi Người đối với loài người)". Và chính nhờ được
Thiên Chúa tỏ mình ra qua Con Ngài là Chúa Kitô như thế mà viên sĩ quan này
có thể vang lên bài Thánh Vịnh 27 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Xin nghe tiếng con van nài, khi con kêu cầu tới Chúa, khi con giang
tay hướng về thánh điện của Ngài.
2) Chúa là mãnh lực và là khiên thuẫn của tôi, lòng tôi tin cậy vào Ngài
và đã được Ngài cứu trợ, bởi thế tâm hồn tôi hoan hỉ và tôi xướng ca ngợi
khen Ngài.
3) Chúa là mãnh lực của dân Ngài, là chiến lũy bảo vệ mạng sống người
Chúa đã xức dầu. Xin cứu sống dân tộc và chúc phúc cho phần gia nghiệp Chúa,
xin hãy chăn nuôi họ, vinh thăng họ tới muôn đời.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 3, 1-13
"Vị chủ tịch giáo đoàn phải là
người không ai trách cứ được: các vị phụ tá cũng vậy, phải nắm giữ mầu nhiệm
đức tin trong lương tâm trong sạch".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Ðây là lời chân thật: Nếu ai ao ước
chức chủ tịch giáo đoàn, thì đó là ước ao một nhiệm vụ tốt đẹp. Vậy vị chủ
tịch giáo đoàn phải là người không có ai trách cứ được, người chỉ kết hôn
một lần, ăn ở tiết độ, khôn ngoan, thanh lịch, đoan trang, hiếu khách, biết
giảng dạy, không mê rượu chè, không gây gỗ, nhưng hoà nhã: không cạnh tranh,
không tham lam, nhưng biết cai quản gia đình mình, dạy con cái biết vâng
phục và tiết hạnh. Nếu ai không biết cai quản gia đình mình, thì làm sao coi
sóc được cộng đoàn Thiên Chúa? Vị chủ tịch giáo đoàn không phải là tân tòng,
kẻo cậy mình kiêu căng mà sa vào án phạt của ma quỷ. Người phải có tiếng tốt
nơi người ngoại, kẻo bị ô danh và sa lưới ma quỷ.
Cũng thế, những người phụ tá phải đoan
trang, không ăn nói nước đôi, không nghiện rượu, không tìm lợi cách đê tiện,
nhưng phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm thanh sạch. Những kẻ ấy
phải được thử thách trước, rồi nếu không có gì đáng trách, thì mới được phục
vụ. Người phụ nữ cũng vậy, phải đoan trang, không nói hành, phải tiết độ và
trung tín trong mọi sự. Các vị phụ tá phải là người chỉ kết hôn một lần:
biết coi sóc con cái và nhà cửa mình. Vì những phụ tá khi thi hành đứng đắn
chức vụ, sẽ được lên bậc cao trọng và sẽ đầy hiên ngang trong lòng tin vào
Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 100,
1-2ab. 2cd-3ab. 5. 6
Ðáp: Con sẽ sống
theo lòng vô tội (c. 2b).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương
và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát mừng Ngài. Con sẽ tiến thân trên
đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng thăm con? - Ðáp.
2) Con sẽ sống theo lòng vô tội trong
nơi cung thất của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt một chút chuyện chi
gian trá. - Ðáp.
3) Ai bí mật nói xấu người lân cận,
con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao và lòng kiêu hãnh,
hạng người đó con cũng không dung. - Ðáp.
4) Mắt con theo dõi những người trung
thành trong đất nước, để họ cùng được cư ngụ với con. Ai sinh sống theo
đường liêm khiết, con người đó sẽ được hầu hạ con. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa
trời đất, con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời
cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7,
11-17
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho
ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi
là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến
gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất
của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy
bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa". Ðoạn tiến lại
gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người
phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền
ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen
Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên
Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người
trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu
tỏ mình ra qua phép lạ Người hồi sinh đứa con trai duy nhất của bà góa thành
Nain nhờ đó Người được dân chúng nhận biết:
"Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám
rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc
người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và
mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với
bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa!' Rồi
Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói:
'Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!' Người chết liền ngồi lên
và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và
tôn vinh Thiên Chúa rằng: 'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta,
và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người'. Lời này về Đức Giê-su được loan
truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận".
Thế
nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, bình thường, nhất là theo chiều hướng
của Phúc Âm Nhất Lãm, Chúa
Giêsu làm
phép lạ khi thấy có đức tin nơi con người ta nói chung và nơi thỉnh nguyện
nhân nói riêng. Nhưng ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, phép lạ
hồi sinh Người làm cho
cậu con trai của bà mẹ góa hoàn
toàn do Người tự ý, chứ bà mẹ của người chết không hề ngỏ ý xin hay tỏ đức
tin gì hết.
Xét cho cùng thì dù Chúa Giêsu làm phép
lạ khi thấy đức tin nơi con người hay tự làm
phép lạ cả
hai đều để tỏ mình ra. Theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan thì thường Người tỏ
mình ra để cho con người nói chung và môn đệ của Người nói riêng tin vào
Người. Bởi vì, Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12). Mà ánh sáng không
chiếu soi không còn là ánh sáng nữa. Bởi thế, Người luôn phải đi bước
trước, ở chỗ tự động tỏ mình ra bằng những "dấu lạ / sign" (từ
ngữ được Thánh ký Gioan sử dụng thay từ ngữ "phép
lạ - micracle" được
Phúc Âm Nhất Lãm sử dụng).
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca cũng cho thấy trường hợp Chúa Giêsu tự động
tỏ mình ra, qua sự kiện Người làm cho đứa con trai duy nhất của người mẹ góa
hồi sinh. Thế nhưng, tại sao Người lại tự động làm phép lạ hồi sinh đứa con
bà mẹ góa này, nếu không phải, như bài Phúc Âm cho biết: "Trông
thấy bà, Chúa chạnh lòng thương".
Ở đây,
qua câu Phúc Âm này, Thánh ký Luca, một người ngoại trở lại và viết Phúc Âm
cho dân ngoại theo chiều hướng của Lòng Thương Xót Chúa, đã ghi nhận được
cả tấm
lòng đầy cảm thương của Chúa Giêsu như thế, như thể chính ngài đang có mặt
vào lúc bấy giờ.
Nhưng
tại sao khi làm các phép lạ khác vào những lần khác không thấy vị Thánh ký
này thêm một câu tương tự như thế: "Trông
thấy ... Chúa chạnh lòng thương".
Trông thấy ai? - "Trông
thấy bà", chứ
không phải trông thấy quan tài của đứa con trai duy nhất của bà, thì
Chúa Giêsu cảm thấy thế nào? - "chạnh
lòng thương". Tại
sao vậy? Thánh
ký Luca đã gián tiếp trả lời ở ngay câu trước đó:
"mẹ
anh ta lại là một bà goá" cũng
như câu sau đó Chúa Giêsu trấn an thông cảm với bà, một cử chỉ hiếm quí hầu
như Người chưa làm với ai bao giờ: "Bà
đừng khóc nữa!"
Phải chăng Chúa Giêsu "trông
thấy bà, Chúa chạnh lòng thương" và
tỏ ra cử chỉ hết sức đặc biệt với người mẹ góa này bằng lời an ủi trấn an: "Bà
đừng khóc nữa!", là
vì bấy giờ cảnh tượng người mẹ góa đưa xác đứa con trai duy nhất của bà đã
gợi lên nơi Người hình ảnh về Mẹ
của Người, người
mẹ góa có một người con trai duy nhất là Người, trong
tương lai, cũng trải qua hoàn cảnh y như của bà
goá thành Nain này, khi Người là con trai duy nhất của Mẹ qua đời ở
Sọ Trường trên Đồi
Canvê?
Nếu đúng như thế thì phép lạ Người hồi sinh cho đứa con ttrai của bà mẹ góa
thành Nain này là dấu tiên báo về
Người Mẹ Đồng Công của Người trong cuộc
Vượt Qua với Người
vậy.
Sự kiện Chúa Kitô là Vị Mục Tử Nhân Lành
"chạnh
lòng thương", thương từng
con chiên của mình, nhất là những con chiên bị thương tích trong tâm hồn,
như thương người mẹ góa trước cái chết của người con trai duy nhất trong bài
Phúc Âm hôm nay, cần phải trở thành mô
phạm trọn lành và tối cao cho thành
phần mục tử được Người tuyển chọn làm môn đệ tông đồ của Người cũng như
thành phần thừa kế các vị.
Phải chăng Chúa Kitô "động lòng thương" bà góa trong bài Phúc Âm
hôm nay, chẳng những vì bà có đứa con trai duy nhất chết đi, khiến Người
chạnh lòng nghĩ đến Mẹ của người, cũng góa bụa và có một người con trai duy
nhất là Người một ngày kia cũng chết, mà còn vì chính bản thân góa bụa của
bà, được Người là Đấng thấu suốt lòng trí từng người, "đoan trang, tiết
độ và trung tín trong mọi sự", đúng như lời Thánh Phaolô ở Bài Đọc 1
hôm nay về thành phần "người phụ nữ" như bà cần phải sống.
Ở Bài Đọc 1, Thánh Phaolô không nói riêng nữ giới cho bằng chú trọng tới
thành phần có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn, dù chính hay phụ, họ đều phải
làm sao hội đủ điều kiện và tác hành xứng với chức bậc của mình, những gì
cũng đã được chất chứa trong Thánh Vịnh 100 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương và đức công minh, lạy Chúa, con sẽ đàn hát
mừng Ngài. Con sẽ tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào Chúa sẽ đến viếng
thăm con?
2) Con sẽ sống theo lòng vô tội trong nơi cung thất của con. Con sẽ
không để bày ra trước mắt một chút chuyện chi gian trá.
3) Ai bí mật nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt thứ người này. Hạng
người mắt nhìn cao và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con cũng không dung.
4) Mắt con theo dõi những người trung thành trong đất nước, để họ cùng
được cư ngụ với con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con người đó sẽ
được hầu hạ con.
Ngày 19 tháng 9:
THÁNH GIA-NU-A-RI-Ô
Giám Mục Tử Đạo
* Gương
Thánh nhân
Thánh Gia-nu-a-ri-ô, sống vào thế kỷ thứ ba. Lòng nhân đức và tài trí
thông minh của ngài đã đưa ngài lên chức Giám mục giáo phận Bê-nê-ven.
Ngài hết sức từ chối chức vị cao trọng đó, vì ngài khiêm tốn, thấy mình
bất xứng trước mặt Chúa. Nhưng Đức Giáo Hoàng ra lệnh, nên thánh nhân
không dám từ chối.
Từ ngày lãnh chức Giám mục, thánh nhân càng sống khắc khổ nghiêm nhặt
hơn, cố ý hãm mình dâng lên Chúa, để cầu nguyện cho hàng giáo sĩ và đoàn
chiên. Ngài luôn sống gần gũi, khuyến khích họ trung thành bền đỗ phụng
sự tôn thờ Chúa, vì Hội thánh lúc đó đang bị hoàng đế Đi-ô-lê-si-en bách
hại, nhiều người đã bị bắt, bị giết vì đạo, nhưng cũng có số người vì
nhát đảm đã bỏ Chúa tế thần.
Thánh nhân rất đau lòng mỗi khi nghe tin con chiên chối đạo. Ngày nọ,
khi biết có 4 Ki-tô hữu bị tống giam vì đức tin, ngài lén đến thăm họ,
khuyên bảo họ can đảm tuyên xưng Chúa Ki-tô. Viên tổng trấn thành phố
hay tin liền ra lệnh bắt giữ ngài. Hôm sau, ông truyền dẫn ngài đến và
bảo:
- Hãy tế thần đi, ngươi sẽ được sống.
Thánh nhân trả lời:
- Tôi không thờ lạy bụt thần ma quỷ như các ông. Tôi chỉ thờ một Thiên
Chúa là Đấng Tạo hóa cao cả hơn hết.
Viên tổng trấn ra lệnh bỏ ngài vào lò lửa cho chết cháy. Nhưng Chúa cứu
ngài bình an vô sự như ba thanh niên Do-thái xưa. Và người ta giam ngài
vào ngục. Từ đây, thánh nhân vui mầng gặp lại các con chiên của mình.
Ngài khuyên bảo họ:
- Chúng con hãy can đảm lên, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà
không làm gì hại được linh hồn. Chúng con hãy kính sợ Đấng phạt chúng
con trong hỏa ngục, hãy trung thành theo Đấng đó, để được sống đời đời.
Ít hôm sau, viên tổng trấn dạy dẫn ngài ra và bảo:
- Ngươi hãy tế thần đi, ta sẽ cho về với đồ đệ ngươi.
Thánh nhân đáp:
- Quan cứ luật mà xử tội, không bao giờ tôi bỏ Chúa mà theo ma quỷ được.
Đứng trước lòng kiên trung của thánh nhân, viên tổng trấn không còn cách
nào hơn là ra lệnh chém đầu ngài.
Thánh nhân đã được phúc tử đạo năm 305, dưới thời hoàng đế
Đi-ô-lê-si-en. Năm 1493 di hài của ngài được dời về Náp-lơ, và được dân
thành tôn làm thánh bổn mạng. Họ rất tin tưởng ngài, chạy đến nhờ ngài
cầu thay nguyện giúp mỗi khi gặp gian nan khốn khó. Tương truyền thánh
nhân đã cứu họ khỏi nạn núi lửa Vê-su và máu ngài đã làm nhiều việc lạ,
nhưng không có bằng chứng nào chắc chắn về các hiện tượng nầy.
* Quyết tâm
Noi gương thánh Gia-nu-a-ri-ô, tôi trung thành bền đỗ theo giúp việc
Chúa cho đến chết, và hằng ngày mời gọi nhiều người cùng trung thành với
Chúa, sẵn lòng chịu khổ cực vì Chúa.
* Lời nguyện
Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con tưởng niệm thánh Gia-nu-a-ri-ô tử đạo.
Xin Chúa rộng ban cho chúng con mai sau được cùng thánh nhân hưởng hạnh
phúc trên trời. Chúng con cầu xin...
Nguồn: http://www.giaophanvinhlong.net
Ngày 16/11/2021, giữa đại dịch toàn cầu vẫn còn hoành hành, trong chuyến
Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 12 ngày 8-19/11/2021,
phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) đã từ Bắc và Trung Ý Nam Ý ở
thành phố Napoli (Naple)
để kính viếng Vương cung Thánh đường Mẹ Mông Triệu TGP Napoli, nơi còn
lưu giữ hài tích của Thánh nhân.
Thánh Januarius, tên tiếng Ý là thánh Gennaro, là thánh quan thầy của
Napoli. Nên hình ảnh của ngài xuất hiện ngay trên tường giữa lòng thành phồ.
Ngài là giám mục của thành phố này vào thế kỷ thứ 3. Ngài đã tử đạo trong
cuộc bách hại của hoàng đế Diocletianus. Xương và máu của ngài được kính
trong nhà thờ chính tòa Napoli.
Máu thánh nhân hóa lỏng ít nhất 3 lần mỗi năm: ngày lễ kính thánh nhân 19/9;
thứ Bảy trước ngày Chúa Nhật đầu tiên của tháng 5; và ngày 16/12, là ngày kỷ
niệm núi lửa Vesuvius phun trào.
Nguyện đường bên trong Vương Cung Thánh Đường Mẹ Mông Triệu TGP Napoli, ở
bên cánh phải, là nơi lưu giữ Máu của vị thánh.
Ngày 21/9/2008, tại thành phố cảng Naples của Ý, một lọ chứa khối chất rắn
đậm màu, được cho là máu khô của giám mục Januarius, lại một lần nữa hóa
lỏng trước ánh mắt ngỡ ngàng của dân chúng.
Phép lạ “máu đông hóa lỏng” này đã xuất hiện rất nhiều lần kể từ thời Trung
Cổ cho đến nay.
Hiện tượng kì lạ này tuy được những tín đồ Công giáo sùng bái như một phép
màu, nhưng vẫn còn để ngỏ một lời giải thích thỏa đáng từ giới khoa học.
(hầm mộ của vị thánh trong vương cung thánh đường)
Chiếc lọ được xem như một thánh tích nổi tiếng của Thiên Chúa giáo, đặt
trang nghiêm trong nhà thờ chính tòa Naples.
Bề ngoài trông lọ khoảng 60ml, chứa một khối vật chất đặc khô chiếm nửa
bình.
Cứ đến các tháng 5, 9, 12, khi thực hiện nghi lễ truy tôn Thánh Januarius,
chiếc lọ được đưa ra, xoay chuyển để “phép màu” xuất hiện:
khối vật chất ấy hóa lỏng ra, có khi ngay lập tức, có khi từ từ, vài giờ đến
vài ngày… sau đó đông lại như cũ.
Không những thế, một số hiện tượng khác cũng được ghi nhận như: sôi, sủi
bọt, đổi màu từ đỏ thẫm sang đỏ hồng, thậm chí khi cân thấy tăng khối
lượng!!!
Có lúc khối ấy không hóa lỏng hết mà nổi thành viên nhỏ trên lớp chất lỏng.
Khi phép lạ xảy ra, khối máu khô, có màu đỏ ở một mặt của bình đựng thánh
tích trở thành chất lỏng bao phủ gần như toàn bộ mặt kính.
Lần gần đây nhất máu không hóa lỏng là vào tháng 12/2016. Phép
lạ đã xảy ra trong khi Napolis bị phong tỏa vì đại dịch virus corona vào
ngày 2/5.
Đức Hồng Y Sepe đã dâng thánh lễ truyền chiếu trực tiếp và ban phước cho
thành phố với thánh tích của máu hóa lỏng.
Ngài tuyên bố: “Ngay cả trong thời gian đại dịch virus corona, qua lời
chuyển cầu của thánh Januarius, Chúa đã cho máu hóa lỏng!”. (CNA 19/09/2020)
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 3, 14-16
"Thật lớn lao thay mầu nhiệm của
tình thương".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, cha viết cho con những
điều này, cha hy vọng ngày gần đây sẽ đến gặp con. Nhưng nếu cha còn trì
hoãn, thì thư này giúp cho con biết phải cư xử thế nào trong nhà Thiên Chúa,
là Hội thánh Thiên Chúa hằng sống, là cột trụ và nền tảng chân lý. Rõ thực
lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong
xác thịt, minh chính trong Thánh Thần tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho
Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110,
1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Vĩ đại thay
công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết
lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa
tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ
oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những
điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai
tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân
Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản
nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147,
12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy
ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7,
31-35
"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh
không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ
phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như
những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà
các anh không nhảy múa.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà
các anh không khóc".
Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn
bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người
đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống,
bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được
minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh
ký Luca không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, mà cách bài Phúc Âm hôm qua
12 câu trong cùng đoạn 7, và khúc 12 câu không được Giáo Hội chọn đọc
này liên quan đến vấn nạn về bản thân Chúa Giêsu được môn đệ của Tiền Hô
Gioan Tẩy Giả đặt ra với Người và Người chẳng những đã gợi chứng cho họ biết
về Người mà còn chứng thực về Vị Tiền
Hô của Người nữa (xem Luca 7:18-30), trong đó có câu
Thánh ký Luca nhận định như sau:
"Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên
Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người
Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ,
và không chịu phép rửa của ông".
Bởi
thế, thành phần được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay chính là "những
người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về
họ, và không chịu phép rửa của ông", Tiền
Hô Gioan Tẩy Giả, vị đã làm phép rửa cho cả Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Thế
nên, thành phần vốn bị Chúa Giêsu khẳng định và khiển trách là giả
hình này đã được Chúa
Giêsu sánh
ví trong bài Phúc Âm hôm nay như
thế này:
"Ta sẽ
phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống
như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: 'Chúng
tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát
những điệu bi ai, mà các anh không khóc'. Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến,
không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: 'Người bị quỷ ám'.
Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: 'Kìa con người
mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi'. Nhưng sự
khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Ở đây, qua nhận định của Chúa
Giêsu về thành phần biệt phái và luật sĩ này,
chúng ta thấy con người phải tuân hợp với chân lý, chứ chân lý không
tuân hợp với con người, không theo con người,
không như ý nghĩ thiển cận và ý muốn vị kỷ của con người, cho
dù chân lý có thích ứng với con người để con người dễ lĩnh hội và chấp
nhận (theo chiều hướng của bài Đọc 1 hôm nay).
Chính vì thành
phần biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái tự phụ cho
rằng mình thông luật và cẩn thận tuân giữ luật
lệ nhờ đó trở nên công chính hơn ai hết, nên tưởng mình là đệ nhất thiên
hạ về lề luật Chúa, ai cũng phải theo như ý
họ nghĩ về lề luật một cách duy luật mới được,
bằng không, vẫn bị họ cho là "bị quỉ ám",
dù vị ấy có là Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả, vị đã từng là đèn soi chiếu cho Đấng đến sau
ngài được họ tìm đến trước đó để truy nguyên về Đấng Thiên Sai (xem
Gioan 5:35; Gioan 1:24-27), thậm chí còn bị họ cho là "mê
ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", dù
vị ấy có là Chúa Kitô, Đấng "là ánh
sáng thế gian" (Gioan 8:12), là "ánh sáng thật chiếu
soi mọi người đã đến trong thế gian"
(Gioan 1:9).
Kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy, Giáo Hội Công giáo
chẳng những bị quyền bính chính trị bách hại suốt giòng lịch sử của
mình ở khắp nơi, mà còn thường trở thành mục tiêu chống đối của chính
nội bộ Kitô hữu Công giáo của mình nữa, bao gồm cả hàng giáo phẩm lẫn
giáo dân, theo chiều hướng cấp tiến hay bảo thủ của họ: Giáo Hội bị coi
là quá chậm chạp trước những con
mắt cấp tiến, hay ngược lại Giáo
Hội bị coi là phá
giới trước con mắt của thành phần bảo thủ nếu Giáo
Hội cần phải thích nghi những
gì tùy phụ theo thời cuộc để
mưu ích hơn cho phần rỗi các linh hồn.
Chưa hết, thực tế phũ phàng cho thấy, theo chiều hướng
canh tân cởi mở của Công Đồng
Chung Vaticanô II, đặc biệt là về phụng vụ, đã xẩy
ra tình trạng quá trớn bởi thành phần cấp tiến thừa thắng xông lên, Giáo
Hội lại bị kêu trách là tại cởi mở, trong khi các nguyên tắc về cởi
mở được Giáo Hội ấn định một cách đàng hoàng rõ ràng lại không được
trung thực tuân giữ. Thế
nhưng, cuối cùng mọi sự sẽ được sáng tỏ, đúng
như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "sự
khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Cho dù con người có
phản ứng bất lợi thế nào với chân lý đi nữa, thì chân lý vẫn là
chân lý, không thể bị con người bóp méo theo thiên kiến hay cảm nghiệm
thiển cận của họ, như chính Chúa Kitô đã minh định trong bài Phúc
Âm hôm nay: "sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái
mình". Một trong những người con đã thực sự "minh chính" cho
"sự khôn ngoan" thần linh này là vị tông đồ dân ngoại Phaolô
trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình
thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong
Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin
trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển".
"Tất cả con cái" của "sự
khôn ngoan" và "minh chính" cho "sự khôn ngoan" này,
như Thánh Phaolô, mới hợp với những gì Thánh Vịnh 110 ở bài Đáp Ca hôm
nay nói tới:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công
hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến
yêu quan tâm học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của
Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người
thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn
đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc
quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Ngày 20 tháng 9
Thánh An-rê Kim Tê-gon, thánh Phao-lô Chung Ha-san và
các bạn, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Ki-tô giáo
đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ XVII.
Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say
và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như
chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi
những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ
này.
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm
1839, 1846, 1866 và 1867, đã sản sinh ra 103 thánh tử
đạo, trong đó nổi bật là linh mục đầu tiên người Hàn
Quốc, cha An-rê Kim Tê-gon. Cha là một mục tử hăng hái
nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh
Phao-lô Chung Ha-san.
Còn những vị khác, đa số là giáo dân nam, nữ, độc thân,
có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả
đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Ki-tô, làm nên
mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc.
1. Đôi
dòng lịch sử
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Andrê Kim
và Thánh Phaolô Chung cùng các bạn tử đạo tại Giáo Hội Đại
Hàn.
Phải nói Giáo Hội Đại Hàn đã được bắt đầu như một phép lạ.
Nói theo cái nhìn của Chúa Giêsu thì Giáo Hội đó được bắt
đầu như một hạt cải nhỏ bé nhưng bây giờ nó đã lớn lên, lớn
lên mạnh mẽ và oai hùng trước sự kinh ngạc vả cảm phục của
nhiều người.
Nào có ai ngờ được rằng chỉ có một người. Người đó tên là Li
Sung Hung. Người ta gọi Li Sung Hung là một học giả. Li Sung
Hung đã đến Bắc Kinh năm 1784. Li Sung Hung được học đạo và
rửa tội tại đây. Sau khi được trở thành một Kitô hữu, Li
Sung Hung thấy mình là người được hạnh phúc. Li Sung Hung đã
không muốn một mình vui hưởng niểm hạnh phúc đó. Li Sung
Hung muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho đồng bào ruột thịt
trên quê hương đất nước của mình. Thế là chỉ với một ít sách
báo, tài liệu hiếm hoi, Li Sung Hung đã lên đường về nước
rồi với nhiệt tình nóng bỏng truyền giáo, Li Sung Hung đã
làm cho ngọn lửa Đức tin được bùng cháy lên.
Việc làm lúc đầu tưởng chừng chỉ là đơn độc và khó lan
truyền, thế nhưng như lời Chúa tiên báo ngọn lửa đó đã bùng
cháy lên.
Một Giáo Hội đã được thành hình. Không linh mục, thậm chí
không có một nhà truyền giáo, chỉ có một giáo dân, rồi từ từ
lan toả, từ từ lớn lên, bất chấp mọi trở ngại, bất chấp mọi
khó khăn nhất là những hiểu lầm lúc khởi đầu.
Rồi ngay sau đó, nhờ những nỗ lực của một nhóm học giả Hàn
quốc tìm tòi, nghiên cứu về đức tin công giáo qua các sách
vở mà ông Li Sung Hung đã mang về từ Trung Hoa, những người
giáo dân Hàn quốc này bắt đầu dạy giáo lý cho những người
khác và rửa tội cho họ. Mãi tới 11 năm sau (1784- 1795), nhờ
sự học hỏi tìn hiểu sâu rộng, nhóm giáo dân công giáo đầu
tiên này mới bắt đầu nhận thấy: họ
cần có một linh mục.
Thế là một đại diện ngoại giao đoàn đã được gửi sang Bắc
kinh. Đức giám mục Bắc kinh đã chấp thuận ngay lập tức. Và
vào năm 1795, cha Chumuymô,
vị linh mục thuộc giáo phận Bắc kinh đã chính thức được cử
sang Đại hàn và trở thành nhà truyền giáo đầu tiên tại đây.
Giáo hội Đại Hàn bắt đầu lớn lên và càng ngày càng lớn
nhanh, lớn mạnh. Thế nhưng cũng như bất cứ Giáo hội nào của
Chúa, như một định luật chung, cứ bắt đầu thành hình, lớn
lên là bắt đầu chịu nhiều cản trở, cấm đoán cản ngăn, thậm
chí nhiều khi còn đi đến chỗ bị bắt bớ tiêu diệt.
Giáo Hội Đại hàn đã phải trải qua một cơn đại hoạ kéo dài
100 năm như thế.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 100 năm đó, lịch sử còn
ghi lại con số 103 vị tử đạo. Trong số 103 vị tử đạo này có
92 giáo dân thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội, 45 người nam
và 47 phụ nữ. Nổi bật nhất là vị linh mục đầu tiên tại đất
nước Hàn quốc là Andrê Kim Têgôn và mười nhà truyền giáo
Pháp. Trong số 103 vị tử đạo, 79 vị đã được phong chân phước
năm 1925, họ là nạn nhân của cuộc bách hại đầu
tiên,
và 24 vị được nâng lên hàng chân phước năm 1968, là nạn nhân
của cuộc bách hại sau này.
Cha Chumuymô cũng được phúc tử đạo. Cùng chịu tử đạo với
ngài lúc đó, có khoảng 300 người mới trở lại đạo.
Bên cạnh đó, người ta không thể không nhắc đến ông Phaolô
Chung,
một nhân công trong một xưởng dệt dây thừng, một gương mặt
tiêu biểu cho những người công nhân, đã được rửa tội năm 30
tuổi, và đã hoạt động tích cực trong việc truyền bá đức tin
công giáo bằng cách giấu ẩn các tín hữu trong vùng khi họ
đến nhận lĩnh các bí tích. Ông đã bị bắt vào năm 1839, bị
tống ngục và bị tra tấn dã man. Vì không chịu đựng được
những cực hình, ông đã đồng ý chối đạo, và được trả lại tự
do. Tuy nhiên, sau đó ông hối hận và trở lại nói với chánh
án, là ông muốn rút lại lời tuyên bố chối đạo. Một lần nữa,
ông bị bắt giam tù và bị đánh đập. Ông chết vì các vết
thương làm độc, năm ấy ông 41 tuổi.
Năm 1984, Giáo hội công giáo Hàn quốc mừng lễ kỷ niệm 200
năm ngày học giả trẻ tuổi Li Sung Hung đến Bắc Kinh năm
1784, được rửa tội tại đây, đoạn trở về quê hương với một số
sách đạo và một ánh lửa đức tin, để rồi sau đó làm bùng cháy
ngọn lửa đức tin công giáo tại Hàn quốc.
Ngày 6.5.1984, tại Seoul, Nam Hàn, trong một thánh lễ
phong thánh đầu tiên được
cử hành ngoài Rôma kể từ thế kỷ XIII, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã nâng 103 vị tử đạo lên bàn thờ và gọi dịp này
là ngày vui mừng nhất, ngày trọng đại nhất trong lịch sử
Giáo hội Công giáo tại Hàn quốc.
2. Bài
học đáng nhớ: Vai
trò của những người giáo dân trong công việc mở mang nước
Chúa.
Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân đã nói rất mạnh: "Thời gian mà các
tín hữu chỉ đóng vai trò thụ động đã qua rồi. Ngày nay Giáo
Hội đặt niềm tin ở sự can thiệp, ở sáng kiến cũng như nơi sự
tuân phục của con cái mình."
Quả thực ngày nay khi nhìn vào Giáo Hội tại Đại Hàn, không
ai mà không nhận thấy các tín hữu của họ đã đóng một vai trò
hết sức năng động và hữu hiệu trong đời sống của Giáo Hội.
Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta cũng ý thức được vai
trò của mình trong công việc xâ dựng giáo xứ mình như thế.
Hai ông giáo dân gặp nhau giữa phố chợ. Ông thứ nhất
nói:
- Ông có nghĩ rằng chúng ta nên giúp cha xứ một tay
không?
Ông thứ hai đáp:
- Tôi cũng thường nghĩ tới chuyện đó, nhưng sao tôi thấy
hình như ngài đã chọn riêng vài người phụ giúp rồi, tôi
không muốn chen vào nhóm đầu não này.
- Ừ, ông sẽ thấy nhóm này luôn quanh quẩn bên cha xứ, cứ
như họ thuộc một hội kín có mật khẩu nào đó.
Một trong những người thuộc nhóm giúp cha xứ, mà hai ông
này đang nói tới, tiến đến góp lời:
- Thực ra cũng có nhóm môn đệ nòng cốt, nếu các ông muốn
tham gia, tôi sẽ tiết lộ mật khẩu cho.
Hai người kia đồng thanh:
- Nào, nói cho chúng tôi nghe đi.
Ông kia đáp:
- Khi cha đến xứ mình, trước hết, ngài cần nhiều đôi tay
góp sức. Ngài đã mời được nhiều người, nhưng chỉ những
người biết mật khẩu mới ở lại giúp ngài. Mật khẩu là: “Xin
Vâng.”
(John
C.Hicks)
Bài đọc 2
Anh em và các bạn rất thân mến, trước hết hãy suy
nghĩ cho thấu đáo : từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã
tạo dựng trời đất muôn vật thế nào. Sau đó, hãy suy
gẫm xem vì lý do và ý định nào Thiên Chúa đã dựng
nên từng người theo hình ảnh của Chúa và giống như
Người.
Vậy, nếu trong thế giới đầy hiểm nguy và khốn khổ
này, chúng ta không nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo
Thành, thì có sinh ra và sống ở trên đời cũng chẳng
ích lợi chi. Mặc dù nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta chào
đời, cũng nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta lãnh nhận bí
tích Thánh Tẩy, được gia nhập Hội Thánh, trở thành
môn đệ của Chúa và mang danh Người, nhưng hữu danh
vô thực nào có ích chi ? Nếu thế, sinh ra trên đời
và gia nhập Hội Thánh thật là vô ích ; hơn thế nữa,
đó còn là phản bội Chúa và cưỡng lại ơn Người. Thà
không sinh ra còn hơn là lãnh nhận ơn Chúa mà xúc
phạm đến Người.
Hãy xem người nông dân lo công việc đồng áng thế nào
: người ấy cày bừa đúng thời vụ, rồi bỏ phân và gieo
hạt giống quý báu, không quản ngại lao nhọc nắng
nôi. Đến mùa gặt, nếu thấy những bông lúa nặng trĩu,
ông ta quên cả mồ hôi và nỗi vất vả, lòng hân hoan
vui sướng, hạnh phúc tràn trề. Còn nếu thấy những
bông lúa lép xẹp nếu chỉ thu được rơm rạ và những
hạt lúa lép, người nông dân lại nhớ đến mồ hôi và
nỗi lao nhọc vất vả, và trước đã chăm sóc thửa ruộng
đó bao nhiêu thì nay lại càng bỏ hoang nó bấy nhiêu.
Tương tự như thế, Thiên Chúa nhận mặt đất làm thửa
ruộng của Người, nhận chúng ta là những con người
làm thóc giống, ban ân sủng làm phân bón. Người còn
lấy máu mình mà tưới trên chúng ta nhờ việc nhập thể
và cứu chuộc, để chúng ta có thể lớn lên và trở
thành bông lúa chín vàng. Đến ngày phán xét là lúc
thu hoạch, người nào nhờ ân sủng mà thành bông lúa
chín, sẽ được hưởng Nước Trời với tư cách nghĩa tử
của Thiên Chúa. Còn ai không thành bông lúa chín, sẽ
trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, dù trước đó chính họ
đã từng là nghĩa tử của Người, và sẽ bị trừng phạt
đời đời theo tội trạng của họ.
Anh em rất thân mến, anh em hãy biết rằng Chúa chúng
ta là Đức Giê-su, khi xuống thế gian đã chịu muôn
vàn đau khổ, đã lấy cuộc Thương Khó của mình mà
thiết lập Hội Thánh và lấy cuộc Thương Khó của các
tín hữu mà làm cho Hội Thánh được lớn lên. Quyền lực
thế gian mặc sức đàn áp và chống đối, cũng đã chẳng
bao giờ thắng được Hội Thánh. Sau khi Chúa lên trời,
kể từ thời các Tông Đồ cho đến nay, Hội Thánh đã lớn
lên ở khắp nơi giữa những gian truân.
Còn nay, suốt năm, sáu mươi năm trở lại đây, kể từ
lúc Hội Thánh có mặt trên đất Triều Tiên của chúng
ta, các tín hữu cũng đã nhiều lần bị bách hại. Ngay
cả ngày nay, cuộc bách hại cũng còn đang khốc liệt,
đến nỗi nhiều người bạn chia sẻ cùng một niềm tin,
trong đó có tôi, đang chịu cảnh ngục tù, cũng như
chính anh em đang sống giữa cảnh gian truân. Chúng
ta đã làm nên một thân thể như thế, làm sao lòng
chúng ta lại chẳng buồn, làm sao chúng ta không cảm
thấy nỗi buồn chia ly theo tình cảm con người ?
Tuy nhiên, như lời Kinh Thánh nói, ngay cả sợi tóc
nhỏ nhất trên đầu, Thiên Chúa cũng quan tâm, và quan
tâm bằng sự thông suốt vô cùng của Người. Vậy, sao
lại coi một cuộc bách hại lớn như thế là cái gì khác
chứ không phải là mệnh lệnh của Thiên Chúa, hoặc là
phần thưởng hay thậm chí là hình phạt của Người ?
Vậy, chúng ta hãy tuân theo ý Thiên Chúa, anh em hãy
hết lòng chiến đấu cho thủ lãnh trên trời là Đức
Giê-su, và đánh bại ma quỷ của thế gian này là kẻ đã
từng bị Đức Ki-tô đánh bại.
Tôi xin anh em : đừng sao lãng tình bác ái huynh đệ,
nhưng hãy giúp đỡ lẫn nhau, hãy kiên trì cho tới khi
Thiên Chúa thương xót mà cất nỗi gian truân khỏi
chúng ta.
Chúng tôi ở đây gồm hai mươi người và nhờ ơn Chúa
chúng tôi vẫn còn khoẻ mạnh. Sau này nếu có ai chịu
tử hình, tôi xin anh em đừng lơ là gia đình của
người đó. Tôi còn nhiều điều phải nói nữa, nhưng làm
sao có thể diễn tả hết bằng giấy trắng mực đen ? Đến
đây tôi xin ngừng bút. Vì chúng tôi sắp bước vào
cuộc chiến đấu, tôi xin anh em luôn sống trung thành
để cuối cùng chúng ta được hưởng niềm vui với nhau
trên trời. Trong tình yêu thương, tôi xin hôn chào
anh em.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ muôn dân, Chúa
đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin Công
Giáo để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn, Chúa lại
ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng
đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh An-rê Kim,
Phao-lô Chung cùng các bạn, tử đạo. Xin nhậm lời cầu
nguyện của các ngài mà ban cho chúng con biết noi
gương các ngài để lại, là trung thành tuân giữ giới
răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Chúng con cầu
xin
Thứ Năm
Ngày 21 tháng 9
Lễ Thánh Matthêu, Tông Ðồ
Lễ Kính
Sở dĩ trong hình Thánh Mathêu trên đây có cả hình con sư
tử, là vì Phúc Âm của ngài là 1 trong 4 Phúc Âm,được vì
trong thị kiến của Sách Khải Huyền 4:6-7 và Ezekien
1:10, là 1 trong 4 Con Vật "đầy mắt" (thần linh khôn
ngoan):
Cuốn phúc âm đầu tiên ấy được ví như con sư tử, phúc âm
thứ 2 của Thánh Marco được ví như con bò tơ, phúc âm thứ
3 của Thánh Luca được vì như Con Vật có mặt con người,
và phúc âm thứ 4 của Thánh Gioan như phượng hoàng,
Bài Ðọc I: Ep 4, 1-7. 11-13
"Chu toàn chức
vụ, xây dựng thân thể Chúa Kitô".
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến,
tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở
xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy
hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng
nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần,
lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân
thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi
đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin,
một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi
người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi
người, và ở trong mọi người.
Nhưng mỗi người
trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Ðức Kitô
ban cho. Và chính Người đã ban cho kẻ làm Tông đồ, người
làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ
khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh
nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể
Ðức Kitô, cho đến khi mọi người chúng ta hợp nhất trong
đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, trở nên
người trưởng thành, đạt đến tầm vóc của Ðức Kitô viên
mãn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng
chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời
xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể
ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác,
đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải
lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể
lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời
chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng
con tuyên xưng Chúa là chúa tể. Lạy Chúa, ca đoàn vinh
quang các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 9-13
"Hãy theo Ta".
- Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là
Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng
dậy đi theo Người. Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa
trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến
ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người.
Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ
Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những
người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Nghe vậy, Chúa Giêsu
bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc,
nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này
có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy
lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng
kêu gọi người tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.
Dẫn Nhập
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)
Mỗi vị thánh đều phản ánh 1 tia sáng nào đó từ Chúa Kitô
"là ánh sáng thế gian" (Gioan
8:12), một "Ánh Sáng đã chiếu trong tăm tối..." (Gioan
1:5) là thế gian tội lỗi này, khi "Lời đã hóa thành nhục
thể" (Gioan 1:14), và "ánh sáng thật đã chiếu soi mọi
người đã đến trong thế gian này" (Gioan 1:9) vẫn còn
tiếp tục phản chiếu nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô:
"Các con là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14).
Trong số các thánh, quan trọng nhất phải kể đến các
Thánh Tông Đồ, được
Giáo Hội cử hành từng vị ở bậc Lễ Kính (feast, có kinh
vinh danh và phụng vụ Lời Chúa hợp với chung các vị hay
từng vị), vì các tông đồ được Chúa Kitô tuyển chọn để
làm chứng nhân tiên khởi của Người, và làm nền tảng của
Giáo Hội Người thiết lập (Epheso 2:20). Đức tin của Kitô
hữu hậu sinh chúng ta là đức tin tông truyền từ các
tông đồ, những người môn đệ tiên khởi của Chúa
Kitô, được sống cận kề với Người từ đầu đến cuối, nhờ đó
các vị mới tận mắt thấy, tận tai nghe và chính
tay được đụng chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-3).
Trong số các Thánh Tông Đồ, thì chỉ có 2 vị được tặng
thêm danh hiệu Thánh Sử thôi, đó
là 2 vị thánh viết 2 cuốn Phúc Âm: Thánh Mathêu và Thánh
Gioan, còn Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Thánh Giuđa
(không phải Giuđa phản bội) chỉ viết các thư còn lưu lại
trong sổ bộ Tân Ước, cũng không được tước hiệu Thánh Sử.
Thánh Mathêu viết Phúc Âm bằng tiếng Do Thái (Hebrew) và
viết cho dân Do Thái, (trong khi Thánh Gioan viết cho
Giáo Hội và Thánh Luca cho Dân ngoại, bởi đó gia phải về
Chúa Giêsu được Thánh Luca liệt kê về tới tận 2 nguyên
tổ của chung loài người),
nên Thánh Mathêu liệt
kê Gia Phả về Chúa Giêsu từ Abraham trở xuống, và hay
trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước để chứng thực Chúa Kitô
chính là Thiên Sai của dân Do Thái.
Thánh Mathêu có khuynh hướng tổng hợp, nên chúng ta thấy
trong Phúc Âm của ngài có Bài
Giảng Trên Núi (đoạn 5-7), Bảy Dụ Ngôn Nước Trời (đoạn
13), Khiển Trách biệt phái và luật sĩ (đoạn 23), Tận Thế
(đoạn 24-25) v.v.
ĐTC
Biển Đức XVI: Thứ Tư 30/8/2006 - Bài 17
Anh Chị Em thân mến:
Để tiếp tục loạt chân dung về 12 Tông Đồ, loạt chân dung
được bắt đầu một ít tuần trước đây, hôm nay chúng ta suy
niệm về Thánh Mathêu.
Phải chân nhận rằng hầu như không thể mô tả trọn vẹn
hình ảnh của ngài, vì tín liệu về ngài hiếm có và không
đầy đủ. Những gì chúng ta có thể làm đó là mô tả không
nhiều lắm về tiểu sử của ngài nhưng những gì được Phúc
Âm cống hiến cho chúng ta.
Ngài bao giờ cũng có tên trong danh sách 12 vị được Chúa
Giêsu tuyển chọn (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts
1:13). Tên của ngài, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là
‘tặng ân của Chúa’. Cuốn Phúc Âm đầu tiên trong sổ bộ
thánh kinh là cuốn phúc âm mang tên của ngài, cho chúng
ta thấy trong danh sách 12 Vị ngài có một tính chất rất
đặc biệt, đó là ‘viên thu thế’ (Mt 10:3).
Đó là lý do ngài được đồng hóa với con người ngồi ở
phòng thuế, kẻ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Người. ‘Khi
Chúa Giêsu đi ngang qua đó Người thấy một người tên là
Mathêu đang ngồi ở phòng thuế, và Người nói cùng anh
rằng: ‘Hãy theo Tôi’. Và ngài đã chỗi dạy theo Người’
(Mt 9:9).
Thánh Marcô (x 2:13-17) và Luca (x 5:27-30) trình thuật
lời kêu gọi con người ngồi ở phòng thuế, nhưng các vị
gọi ngài là ‘Levi’. Việc tưởng tượng ra cảnh được diễn
tả trong Phúc Âm Thánh Mathêu 9:9 cũng đủ để nhớ đến bức
họa vĩ đại của Carabaggio, được giữ ở Rôma đây, nơi
Thánh Đường Thánh Louis của Pháp.
Một chi tiết mới về thân thế của ngài được các Phúc Âm
nhắc tới, đó là, trong đoạn Phúc Âm, trước trình về về
lời Chúa Giêsu kêu gọi ngài, có nói tới chi tiết về phép
lạ Chúa Giêsu đã làm ở Capernaum (x Mt 9:1-8; Mk
2:1-12), liên quan tới Hồ Tibêria, gần Biển Galilêa (x.
Mk 2:13-14).
Người ta có thể suy diễn là Thánh Mathêu đã thực hiện
nhiệm vụ của một viên thu thuế ở Capernaum, ở ngay ‘bên
biển’ (Mt 4:13), nơi Chúa Giêsu là một vị khách thường
xuyên của gia đình Thánh Phêrô.
Căn cứ vào những nhận định sơ sài từ Phúc Âm này, chúng
ta có thể thực hiện một số chia sẻ như sau. Trước hết là
Chúa Giêsu đã đón nhận trong nhóm bạn hữu thân thiết của
mình một con người, theo quan niệm ở Do Thái thời ấy,
được coi là một tội nhân công khai.
Thật ra Mathêu chẳng những là nhân viên quản trị về tiền
bạc, một việc được coi là không tinh sạch vì nó xuất
phát từ con người xa lạ với thành phần dân Chúa, mà còn
hợp tác với thẩm quyền ngoại bang, tham lam bẩn thỉu, có
thể ấn định việc cống nộp một cách tùy tiện.
Vì những lý do đó, có vài lần các Phúc Âm đã đề cập
chung ‘thành phần thu thuế và tội lỗi’ (Mt 9:10; Lk
15:1), ‘thành phần thu thuế và gái điếm’ (Mt 21:31).
Ngoài ra, các Phúc Âm còn thấy nơi thành phần thu thuế
một mẫu gương tham lam nữa (x Mt 5:46: họ chỉ yêu thương
những ai thương yêu họ) và đã đề cập đến một người trong
họ là Gia Kêu, như ‘người trưởng ban thu thuế, và giầu
có’ (Lk 18:11).
Căn cứ vào những chi tiết ấy vấn đề cần phải chú ý là
Chúa Giêsu không loại trừ một ai ra khỏi tình thân hữu
của Người. Hơn thế nữa, chính lúc Người ngồi ở bàn ăn
trong nhà viên Thu Thuế Mathêu, trả lời những ai cảm
thấy ngứa mắt trước sự kiện qui tụ thường xuyên song bất
xứng của Người, Người đã tuyên bố điều quan trọng này là
‘Những ai khỏe mạnh thì không cần đến thày thuốc, chỉ có
những ai yếu bệnh mới cần; Tôi đến không phải để kêu gọi
thành phần công chính mà là tội nhân’ (Mk 2:17).
Lời loan báo tốt đẹp này của Phúc Âm thực sự là ở chỗ
đó, ở chỗ Thiên Chúa cống hiến ân sủng của Ngài cho
thành phần tội nhân! Ở một đoàn khác, bằng một dụ ngôn
nổi tiếng về người Pharisiêu và người thu thuế cùng lên
đền thờ cầu nguyện, Chúa Giêsu thậm chí cho thấy một
người thu thuế vô danh nêu gương khiêm nhượng tin tưởng
vào tình thương thần linh: Trong khi người Pharisiêu
ngạo nghễ về tình trạng trọn lành luân lý của mình, thì
‘người thu thuế, đứng ở đằng xa, không dám ngước mắt lên
trời, chỉ biết đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương
đến tôi là kẻ tội lỗi!’
Và Chúa Giêsu nhận định rằng: ‘Thày cho các con biết
người này về nhà được công chính chứ không phải người
kia; vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình
xuống sẽ được nâng lên’ (Lk 18:13-14).
Bởi thế, qua hình ảnh Mathêu, các Phúc Âm cho chúng ta
thấy một cái ngược đời thực sự, đó là ai có vẻ xa vời
nhất với thánh đức lại có thể trở thành một mô phạm
trong việc chấp nhận lòng thương xót Chúa, giúp họ có
thể thoáng thấy được những hiệu năng của lòng xót thương
này nơi cuộc sống của họ.
Về vấn đề này, Thánh Gioan Chrysostom đã có một nhận
định đáng kể. Ngài nhận định rằng nơi trình thuật về ơn
gọi thì chỉ có một vài người được kêu gọi là có liên
quan tới công việc họ đang hành sự. Phêrô, Anrê, Giacôbê
và Gioan đã được kêu gọi khi các vị đang đánh cá; Mathêu
được kêu gọi khi anh đang thu thuế.
Chúng là những công việc có tầm vóc không quan trọng là
bao, Thánh Chrysostom nhận định: ‘không còn gì đáng ghê
tởm hơn là viên thu thuế và không gì tầm thường hơn là
việc đánh cá’ ("In Matth. Hom": PL 57,
363).
Bởi thế, lời kêu gọi của Chúa Giêsu cũng vươn tới cả
thành phần ở tầm cấp thấp kém, thành phần làm những việc
tầm thường của mình.
Một ý tưởng khác cũng xuất phát từ trình thuật Phúc Âm,
đó là việc Mathêu tức khắc đáp lại lời mời gọi của Chúa
Giêsu: ‘Ông đã đứng lên đi theo Người’. Lời vắn gọn của
câu này nhấn mạnh đến tính cách tức khắc nơi việc Mathêu
đáp lại lời kêu gọi.
Đối với ông thì điều này có nghĩa là từ bỏ hết mọi sự,
nhất là một nguồn lợi tức vững chắc, mặc dù thường bất
chính và bất xứng. Hiển nhiên là Mathêu hiểu rằng mối
thân tình với Chúa Giêsu không cho phép anh tiếp tục
những hoạt động không đẹp lòng Chúa.
Người ta có thể dễ dàng trực giác thấy rằng vấn đề này
cũng có thể được áp dụng cho hiện nay nữa, ở chỗ, ngày
nay người ta cũng không thể chấp nhận việc gắn bó với
những gì bất xứng hợp với việc theo Chúa Giêsu, như
những thứ giầu sang gian dối. Có lần Người đã công khai
phán rằng: ‘Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy về bán
những gì mình có mà cho kẻ khó để có được nước trời; rồi
hãy đến mà theo Tôi’ (Mt 19:21).
Đó chính là những gì Mathêu đã làm: Anh đã chỗi dậy đi
theo Người! Nơi việc ‘đứng dậïy’ này người ta có thể
thấy được việc ly thoát với tình trạng tội lỗi, đồng
thời, thấy được cả việc ý thức gắn bó với một sự sống
mới, chính trực, hiệp thông với Chúa Giêsu.
Sau hết, chúng ta nhớ lại rằng truyền thống của Giáo Hội
sơ khai đồng ý với việc gán tác giả quyền của cuốn Phúc
Âm thứ nhất cho Mathêu. Việc này được bắt đầu với
Papias, vị giám mục của Gerapolis ở Phrygia, vào khoảng
năm 130.
Vị giám mục này viết rằng: ‘Mathêu đã viết những lời của
Chúa Giêsu bằng tiếng Do Thái, và mỗi người giải thích
những lời ấy tuỳ họ có thể’ (in Eusebius of Caesarea,
"Hist. eccl.", III, 39, 16). Sử gia Eusebius còn thêm
chi tiết là: ‘Mathêu, vị trước đó đã giảng dạy cho người
Do Thái, khi quyết định đi đến với cả các dân tộc khác
nữa, thì đã viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình Phúc Âm ngài
đã loan truyền: Nhờ đó ngài đã thay thế, bằng bản viết
của mình, những gì họ, thành phần ngài lìa bỏ, bị mất
mát đi bởi việc ra đi của ngài’ (Ibid., III, 24, 6).
Chúng ta không còn bản Phúc Âm được Thánh Mathêu viết
bằng tiếng Do Thái hay Aramaic, mà là bản Phúc Âm bằng
tiếng Hy Lạp là bản được lưu lại cho tới chúng ta, chúng
ta vẫn tiếp tục nghe, ở một nghĩa nào đó, tiếng nói
thuyết phục của người thu thuế Mathêu, vị mà khi trở
thành tông đồ đã tiếp tục loan truyền cho chúng ta tình
thương cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp này của Thánh Mathêu,
chúng ta hãy suy niệm sứ điệp ấy luôn mãi để chúng ta có
thể cương quyết dứt khoát chỗi dạy theo Chúa Giêsu.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín
liệu được Zenit phổ biến ngày 30/8/2006
Bài đọc 2
Đức Giê-su đã nhìn thấy ông, yêu thương và tuyển chọn ông
Trích bài giảng của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục.
Đức Giê-su thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở bàn
thu thuế. Người bảo ông : Anh
hãy theo tôi. Người thấy không phải với con mắt thể xác,
cho bằng với cái nhìn đầy tình thương sâu xa. Đức Giê-su
thấy người thu thuế ; Người nhìn ông với tình thương và có ý
chọn ông, nên bảo ông : Anh
hãy theo tôi ! Nhưng hãy
theo có nghĩa là hãy bắt chước, không phải chỉ theo bằng
bước chân mà nhất là bằng cách ăn thói ở. Quả thật, ai
nói mình ở lại trong Đức Ki-tô thì phải đi trên con đường
Người đã đi.
Và
ông đứng dậy đi theo Người. Chẳng có gì lạ khi thoạt nghe
tiếng Chúa truyền, người thu thuế từ bỏ ngay những lợi lộc
trần gian ông đang quản lý, và một khi đã coi thường sự giàu
sang, ông dấn thân bước theo Đấng mà ông thấy chẳng có chút
của cải nào. Thật vậy, chính Chúa, Đấng bên ngoài dùng lời
nói để gọi ông, thì bên trong dùng sự thúc đẩy vô hình mà
dạy ông bước theo Người, vì Người tuôn đổ vào lòng trí ông
ánh sáng của ơn thiêng khiến ông hiểu được rằng Đấng kêu gọi
ông từ bỏ của cải tạm bợ trên trần gian, cũng có quyền ban
kho tàng chẳng hư nát trên trời.
Đức
Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế
và tội lỗi đến cùng ăn với Người và các môn đệ. Như
thế, một người thu thuế trở lại đã nêu gương cho nhiều người
thu thuế và tội lỗi biết sám hối và được ơn tha tội. Đây
thật là một điềm tốt : vì thoạt khi vừa trở lại, người sau
này sẽ trở thành tông đồ và thầy dạy đức tin đã kéo theo
mình một đoàn tội nhân đến lãnh ơn cứu độ, và ngay khi đức
tin của ông còn phôi thai, ông đã bắt đầu làm công việc loan
báo Tin Mừng, công việc mà sau này ông sẽ hoàn thành mỹ mãn,
khi đã tiến bộ trên đường nhân đức. Nếu chúng ta muốn tìm
hiểu sâu xa hơn câu chuyện trên đây, thì nên biết rằng không
phải Mát-thêu chỉ thết Chúa một bữa tiệc vật chất trong ngôi
nhà của ông ở trần gian, mà còn dọn cho Người một bữa tiệc
trong ngôi nhà tâm hồn ông với tất cả niềm tin yêu, điều đó
còn quý hơn nhiều, bởi chính Chúa đã phán : Này
đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì
Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người
ấy sẽ dùng bữa với Ta.
Chúng ta nghe tiếng Người và mở cửa ra đón Người, khi chúng
ta sẵn sàng vâng theo những lời khuyên nhủ kín đáo hay rõ
ràng của Người, và ra sức chu toàn những điều ta biết mình
phải thi hành. Người vào nhà để Người cùng với chúng ta và
chúng ta cùng với Người ăn bữa tối, vì Người ngự trong tâm
hồn những kẻ được tuyển chọn, nhờ hồng ân tình yêu của
Người. Nhờ đó, Người luôn nuôi dưỡng họ bằng sự hiện diện
quang minh của Người, để họ ngày càng vươn tới những ước
vọng cao siêu và để chính Người được thưởng thức những khát
vọng cao cả của họ như một thứ cao lương mỹ vị.
Lạy Chúa, Chúa đã mở lượng từ bi khôn tả chọn một người
thu thuế là Mát-thêu làm tông đồ rao giảng Tin Mừng. Xin
nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho chúng
con biết noi gương người, luôn hết tình gắn bó với Chúa
Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của đại diện
các tạp chí trên thế giới của Dòng Tên Cuộc
phỏng vấn dài này kéo dài 3 buổi khác nhau, tại chính phòng
trọ của ngài ở Casa Santa Marta trong Tháng 8/2013.
Jorge Mario Bergoglio là ai?
Tôi hỏi thẳng Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng: "Jorge Mario
Bergoglio là ai?" Ngài chăm chăm nhìn vào tôi một cách trầm
lặng. Tôi hỏi ngài xem tôi có được hỏi ngài câu này hay
chăng. Ngài gật đầu và trả lời rằng: "Tôi không biết phải
diễn tả làm sao cho thích đáng nhất đây... Tôi
là một tội nhân. Đó là một định nghĩa chính xác nhất. Nó
không phải là một lời nói bóng gió, một thứ văn chương. Tôi
là một tội nhân".
Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ và tỏ ra tập trung vào vấn
đề như thể ngài không ngờ về một câu hỏi như thế, như thể
ngài bị bắt buộc phải chia sẻ thêm. "Đúng thế, có lẽ tôi có
thể nói rằng tôi hơi khéo léo một chút, rằng tôi có thể
thích ứng với các hoàn cảnh mà nói, thế nhưng tôi cũng thật
sự là hơi ngây ngô thẳng thắn. Phải đấy, thế nhưng cái tóm
gọn đúng nhất, cái xuất phát từ trong lòng và tôi cảm thấy
đúng nhất là thế này: Tôi là một tội nhân được Chúa đoái
thương". Và ngài lập lại rằng: "Tôi là một kẻ được Chúa đoái
thương. Tôi luôn cảm thức được câu tâm niệm của mình,
Miserando atque Eligendo (vì thương mà chọn) là những gì rất
đúng với tôi".
Câu tâm niệm này được lấy từ các Bài Giảng của tác giả Bede
the Venerable, vị viết trong phần dẫn giải của mình về câu
truyện Phúc Âm liên quan đến việc Thánh Mathêu được Chúa
Giêsu kêu gọi: "Chúa Giêsu đã trông thấy một người thu thuế,
và vì Người nhìn anh ta bằng những cảm xúc yêu thương nên đã
chọn anh ta, Người đã nói cùng anh ta rằng: 'Hãy theo Ta'".
Đức Giáo Hoàng còn thêm: "Tôi nghĩ động danh
từ Latinh miserando này không thể dịch sang cả tiếng Ý lẫn
tiếng Tây Ban Nha. Tôi thích dịch nó bằng một động danh từ
(gerund) khác vốn không có, đó là misericordiando
('mercy-ing' - việc thương xót)".
Đức Giáo Hoàng tiếp tục chia sẻ mà nói, khi nhẩy qua một đề
tài khác: "Tôi không biết rõ về Rôma. Tôi biết một ít điều
thôi. Những điều này bao gồm Đền Thờ Đức Bà Cả; tôi thường
đến đó. Tôi biết Đền Thờ Đức Bà Cả, Đền Thờ Thánh Phêrô...
thế nhưng khi tôi cần phải đến Rôma thì tôi bao giờ cũng ở
(vùng lân cận) của Via della Scrofa. Từ đó, tôi thường viếng
thăm Nhà Thờ Thánh Louis Pháp Quốc và tôi đến đó để chiêm
ngưỡng bức họa liên quan đến 'Ơn Gọi của Thánh Mathêu' của
Caravaggio.
"Ngón tay của Chúa Giêsu chỉ vào Thánh Mathêu. Tức là tôi.
Tôi cảm thấy như ngài". Đến đây Đức Giáo Hoàng trở nên quyết
liệt, như thể ngài cuối cùng đã thấy được hình ảnh ngài đã
tìm kiếm: "Chính cử chỉ của Thánh Mathêu đã tác động
tôi: Ngài giữ lấy tiền của ngài như muốn nói rằng 'Không,
không phải là tôi! Không, tiền bạc này là của tôi'. Đấy, tôi
đó, một tội nhân đã được Chúa hướng nhìn tới. Và đó là những
gì tôi đã nói khi các vị hỏi tôi rằng tôi có chấp nhận được
tuyển bầu làm giáo hoàng hay chăng". Bấy giờ vị giáo hoàng
này đã thầm thĩ bằng tiếng Latinh rằng: "Tôi là một tội
nhân, nhưng tôi tin vào tình thương vô biên và nhẫn nại của
Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, và tôi chấp nhận bằng tinh
thần thống hối".
Thứ Năm
(Nếu ngày này không bị trùng với và át đi bởi Lễ kính Thánh
Mathêu Tông Đồ trên đây)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 4, 12-16
"Con hãy thận trọng giữ mình và giữ
lấy giáo lý: như thế con sẽ cứu lấy chính mình con và những kẻ nghe lời
con".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, chớ có ai khinh dể con
vì con còn trẻ: nhưng con hãy nêu gương sáng cho các tín hữu, trong lời nói,
cách ăn nết ở, trong đức bác ái, đức tin và đức thanh khiết. Cho tới khi cha
đến, con hãy chăm chú đọc sách, khuyên bảo và dạy giáo lý. Con chớ quên lãng
ân sủng trong con, là ơn đã ban cho con bởi lời tiên tri cùng với việc đặt
tay của bậc Lão thành. Con hãy suy ngắm những sự đó, hãy để tâm đến các việc
ấy, để mọi người đều thấy rõ con đã tiến tới. Con hãy thận trọng giữ mình và
giữ lấy giáo lý: hãy kiên trì trong những việc ấy. Vì khi con làm như vậy,
con sẽ cứu lấy chính mình con và những kẻ nghe lời con.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110,
7-8. 9. 10
Ðáp: Vĩ đại thay
công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Công cuộc tay Chúa làm ra
đều chân thật và công chính, mọi giới răn của người đều đáng cậy tin. Những
giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân
thành và đoan chính. - Ðáp.
2) Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho
dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực là thánh
thiện và khả úy! - Ðáp.
3) Ðầu sự khôn ngoan là tôn sợ Chúa,
bao nhiêu người thờ Chúa đều hành động cách khôn ngoan. Lời khen ngợi Chúa
còn tồn tại tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi
tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7,
36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha
rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời
Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn
ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng
bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc
thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân
Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt
phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết
người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một
đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi
có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một
người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả,
nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ
nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu
bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và quay lại phía người đàn bà, Người
bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không
đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc
mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn
chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm
xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì
bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con
đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này
là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã
cứu con, con hãy về bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Đọc 1 hôm qua có câu: "Rõ
thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện
trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần, tỏ hiện cho Thiên Thần, rao
giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển", Bài
Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, một phúc âm được viết cho dân ngoại và về
Lòng Thương Xót Chúa, tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về một Chúa Kitô bị
thành phần biệt phái và luật sĩ cho rằng: "mê
ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi", bài
Phúc Âm ghi
lại một sự kiện như thể
chứng thực Chúa Giêsu quả là như thế, quả là Đấng muốn đến sống gần
gũi với thành phần tội lỗi để có thể cứu chuộc họ, để
nhờ đó họ có thể nhận
ra Lòng Thương Xót Chúa qua Người, ở nơi
Người và là
chính Người.
Thật
vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Luca cho thấy Chúa Giêsu đã gần gũi
với một người đàn bà hư thân mất nết, một thứ gần gũi bất khả tránh ngoài ý
muốn nhưng thật cần thiết, cho dù có thể trở thành gương mù cho người khác,
như đã xẩy ra ở ngay trước mắt của vị chủ nhà biệt phái, đến độ gia chủ lấy
làm ngạc nhiên khi chứng kiến thấy cảnh tượng, mà đối với thành phần coi
mình là công chính bởi thông luật và duy luật, có vẻ quái
gở này:
"Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình;
Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội
lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái,
liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân
Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn
chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ
rằng: 'Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình
là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!'".
Nếu
trong dụ ngôn vẫn được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng, người cha nhân
hậu trong dụ ngôn chẳng những tỏ lòng thương đứa con hoang đàng trở về mà
còn thương cả đứa con cả ở nhà với ông mà lòng lại xa ông thế nào, thì trong
bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu chẳng những tỏ lòng thương cả đứa con hoang đàng là người phụ nữ đang
hết lòng thống hối ăn năn trở về với Người mà còn tỏ lòng thương cả vị chủ
nhà công chính nhưng lầm lạc đáng thương nữa. Đó là lý do trong khi gia
chủ đang có tư tưởng ngờ vực về thế giá của Người là vị được ông
ta trân trọng mời vào nhà
và dùng
bữa với ông, Chúa
Giêsu đã kéo ông từ bộ óc trên đầu của ông xuống trái tim ở dưới lồng ngực
của ông, bằng một dụ ngôn vấn
nạn làm ông tự suy
nghĩ và đã nhận định
rất đúng:
"Chúa Giêsu
lên tiếng bảo ông rằng: 'Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông'. Simon
thưa: 'Xin Thầy cứ nói'. 'Một
người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm
mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai
người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?' Simon đáp: 'Tôi nghĩ là kẻ đã
được tha nhiều hơn'. Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông đã xét đoán đúng'".
Thế
rồi, căn cứ vào câu trả lời chính xác theo tự nhiên của vị chủ nhà, Chúa
Giêsu mới áp dụng vào trường hợp của người phụ nữ tội lỗi đang đụng chạm đến
Người ở ngay trước mặt ông, một con người được kể như mắc nợ nhiều hơn ông,
(chứ không phải là ông công chính theo chủ quan mà ông không
mắc nợ gì với Chúa nữa), một
vị gia chủ tuy cảm phục Người đã mời Người đến nhà dùng bữa, (một người biệt
phái hiếm thấy đối với Chúa Giêsu vẫn là cái gai chướng mắt của thành phần
biệt phái và luật sĩ, dù vị chủ nhà này chưa cảm mến Người bằng nghị viên
biệt phái Nicôđêmô - Gioan 3:1-2), nhưng vẫn không tỏ ra hết lòng cung kính
Người và mến yêu Người như chính con nợ phụ nữ mà trong đầu của ông đang
có vấn đề
với Chúa, như
chính Người đã vạch ra cho ông thấy trong bài Phúc Âm:
"Và quay
lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: 'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi
đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước
mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà
này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi,
còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất
nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu
mến ít'".
Thế
rồi, trong khi chủ nhà đang bàng hoàng choáng váng bởi những nhận định rất
chính xác về ông cũng như về người đàn bà tội lỗi đã có những hành động đúng
như những
gì vị đại khách nhắc lại
và so sánh với thái độ cùng hành động
của ông đối với cùng vị
khách này, thì Chúa
Giêsu đã phán với người đàn bà hư thân mất nết, như con nợ nhiều gấp 10 lần
vị gia chủ ("hai
con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi") rằng: "Tội
con đã được tha rồi".
Lời
Người phán truyền tha tội này không ngờ lại
gây phản ứng dữ dội hơn
nữa, lần này không phải chỉ riêng vị gia chủ mà bao gồm cả những khách được
mời (chắc cùng thành phần biệt phái với chủ nhà) nữa.
Bởi thế, "những
người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: 'Ông này là ai mà lại tha tội
được?'". Họ
nghĩ cũng đúng thôi, vì trước mắt họ thì Chúa Kitô chỉ là một nhân vật Giêsu
Nazarét thuần túy, chứ chẳng phải thần thánh gì, chẳng phải là Con Thiên
Chúa, chẳng phải là
Thiên Chúa, Đấng duy nhất
có quyền tha tội cho loài người.
Tuy nhiên, trong khi con mắt duy
luật và cao ngạo của thành phần biệt phái này không nhận ra vị thượng
khách ở giữa họ như thế thì người phụ nữ lăng loàn tội lỗi đáng kinh tởm và
xa lánh đối với họ lại nhận ra Người, Đấng có quyền tha tội lỗi cho nàng, nên
nàng mới
bày tỏ những
cử chỉ ăn năn thống hối tuyệt vời nhưng đầy
ngứa mắt như
vậy, thậm chí nàng cứ đến
với Người bất
chấp các con mắt khinh người của nhóm khách biệt phái: "Chợt có một người
đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người
biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm...".
Chính
vì hành động đầy tin tưởng hết sức can đảm lạ lùng hiếm có này của người phụ
nữ lạ mặt "tội
lỗi trong thành" này mà cuối
cùng Chúa Giêsu đã nói với nàng rằng: "Ðức
tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Kinh
nghiệm tu đức và
mục vụ cũng
cho thấy, có những tâm
hồn tội lỗi lâu năm chưa xưng tội, hay đúng hơn không
dám xưng tội, vì chỉ sợ cứ sa đi ngã lại, hay vì
thấy mình tội lỗi chất chồng và càng chồng chất tội lỗi càng khó trở về với
Chúa, thậm chí còn nản chí mất lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn theo
dõi và tìm kiếm từng con chiên lạc đã có cách cứu độ của Ngài. Bởi thế, vào
thời điểm ấn định, trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, có những tâm hồn đã
trở về với Ngài, đã xưng tội, cho dù vào trong giờ lâm tử, và sau đó họ cảm
thấy họ được giải thoát và được tràn đầy bình
an, một thứ bình an họ
không thể nào có được khi họ đang sống trong tự do theo ý họ một cách
gian ác lỗi lầm, một thứ bình an thế gian mà họ đã từng mù quáng theo đuổi
và hoan hưởng không
thể nào ban cho họ được
(xem Gioan 14:27).
Bởi thế,
kinh nghiệm tu đức còn cho thấy, có trở về với
Chúa, có chạm đến Chúa nơi Bí Tích Hòa Giải và sau đó nơi Bí Tích Thánh Thể,
con người yếu đuối với có sức để sống đức tin và đức ái, bằng không, càng
ngày sẽ càng bê bối và lún sâu xuống bùn lầy tội lỗi, đến độ nếu không có
phép lạ không thể nào thoát khỏi vùng lầy tội lỗi ấy nữa. Nếu người phụ nữ
tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay không dám đến gần Chúa và thậm chí dám giơ
bàn tay nhơ nhớp đã từng làm đĩ chạm đến
Chúa, thì chắc nàng không
bao giờ có thể được thanh tẩy và thậm chí được biến đổi (như chúng ta sẽ
thấy trong Bài Phúc Âm ngày mai).
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu so sánh tuổi thì chắc chắn người phụ nữ tội
lỗi trong thành đến khóc lóc và xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu với vị chủ
nhà thì người phụ nữ tội lỗi này trẻ hơn. Tuy nhiên, không phải vì trẻ mà
không thể khôn ngoan hơn và sống tầm thường hơn người nhiều tuổi hơn. Trái
lại, căn cứ vào những gì chị làm, những việc chị làm thậm chí được Chúa
Giêsu khen tặng trước mặt gia chủ già đời hơn. Bởi thế mà Thánh Phaolô trong
Bài Đọc 1 hôm nay, ngài đã bảo người môn đệ Timôthêu của ngài rằng: "chớ
có ai khinh dể con vì con còn trẻ: nhưng con hãy nêu gương sáng cho các tín
hữu, trong lời nói, cách ăn nết ở, trong đức bác ái, đức tin và đức thanh
khiết".
Cái khôn ngoan nhất của con người đó là nhận biết Thiên Chúa, trước hết và
trên hết là ở chỗ tỏ ra kính sợ Ngài, như người phụ nữ tội lỗi trong thành
đã thực hiện trong bài Phúc Âm hôm nay, đúng như câu Đáp Ca thứ 3 được trích
từ Thánh Vịnh 11, câu 10: "Ðầu sự khôn ngoan là tôn sợ
Chúa, bao nhiêu người thờ Chúa đều hành động cách khôn ngoan. Lời khen ngợi
Chúa còn tồn tại tới muôn đời".
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 6, 2c-12
"Phần con, hỡi con người của Thiên
Chúa, hãy theo đuổi đức công chính".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy giảng dạy và
khuyên nhủ những điều này. Nếu ai giảng dạy điều chi khác lạ và không thành
tín nắm giữ những lời giáo huấn lành mạnh của Chúa chúng ta, là Ðức Giêsu,
và giáo lý phù hợp với đạo đức, thì người đó là kẻ mù quáng vì kiêu ngạo,
không hiểu biết gì, nhưng mải mê về những chuyện bàn cãi và tranh chấp danh
từ. Do đó phát sinh ra sự ghen tương, tranh chấp, lăng nhục, nghi ngờ với ác
tâm, và những cuộc cãi cọ dai dẳng của những người hư hỏng tinh thần và
thiếu thốn chân lý. Họ coi đạo đức là một nguồn lợi. Thực ra đạo đức là
nguồn lợi lớn cho những ai biết bằng lòng với số phận mình. Bởi vì chúng ta
đã không mang gì vào thế gian này, và chắc chắn chúng ta cũng không thể lấy
ra được gì. Khi có cơm ăn và áo mặc, chúng ta hãy lấy thế làm bằng lòng. Còn
như những kẻ muốn làm giàu, họ sa vào cơn cám dỗ, vào cậm bẫy và nhiều dục
vọng điên rồ tác hại. Những cái đó làm con người ta chìm đắm vào chỗ điêu
tàn và hư hỏng. Bởi chưng gốc rễ mọi sự dữ là lòng tham tiền bạc. Một số
người vì đeo đuổi lòng tham này đã lạc mất đức tin và tự chuốc vào thân
nhiều nỗi khổ đau.
Phần con, hỡi người của Thiên Chúa,
hãy trốn xa những chuyện đó. Hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh,
đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc
chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã
được kêu gọi tới, và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước
mặt nhiều nhân chứng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 48, 6-7.
8-10. 17-18. 19-20
Ðáp: Phúc cho
những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3).
Xướng: 1) Tại sao tôi phải kinh hãi
trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu hại bao bọc quanh tôi? Bọn người
này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có bạc vạn tiền muôn. - Ðáp.
2) Nhưng thực ra không ai tự cứu được
bản thân, cũng không ai dâng được lên Chúa giá tiền thục mạng. Giá thục mạng
quá đắt, không bao giờ có đủ, hầu mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi
sự chết. - Ðáp.
3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có,
khi thấy tài sản nhà họ gia tăng: bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì
hết, và tài sản cũng không cùng họ chui xuống nấm mồ. - Ðáp.
4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình
rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm
đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những người muôn thuở không được nhìn xem sự
sáng. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của
Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 1-3
"Có mấy phụ nữ đi với Người và họ
đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và
xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai
cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và
bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ
ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà
khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Bài Phúc Âm hôm nay, mở đầu đoạn
8, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua ở cuối đoạn 7.
Tức là, sau sự kiện Chúa Giêsu được một người biệt phái tên là Simon mời đến
dùng bữa với ông và bạn hữu của ông, ở đó Người đã
tha thứ cho một
người phụ nữ tội lỗi hết lòng ăn năn thống hối đến với
Người.
Nếu bài Phúc Âm hôm qua, người phụ nữ lạ mặt như vô danh tiểu
tốt này chỉ được Thánh ký Luca tiết lộ một chút xíu ở ngay đầu bài
Phúc Âm đó là "một
người đàn bà tội lỗi trong thành", thì
hình như người phụ nữ tội lỗi ấy đã trở thành một (vẫn tiếp tục vô
danh) trong những nữ môn đệ
của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Khi ấy, Chúa rảo qua
các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa.
Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa
khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được
trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà
Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người".
Phải
chăng người phụ nữ tội lỗi tỏ lòng ăn năn thống hối ấy chẳng những đã từ
bỏ đời sống tội lỗi mà còn dấn thân theo phục vụ Đấng đã vô cùng từ bi nhân
hậu tha thứ tội lỗi cho mình nữa, qua chi tiết được Thánh ký Luca cho biết
là: "Maria
cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám".
Suy diễn
này có thể đúng: người phụ nữ tội lỗi đã "đứng
phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau,
rồi hôn chân và xức thuốc thơm" và đã được
Người tha thứ: "Tội lỗi con đã được tha... Ðức
tin con đã cứu con, con hãy về bình an", trong
bài Phúc Âm hôm qua, chính
là "Maria
cũng gọi là Mađalêna" trong
bài Phúc Âm hôm nay.
Thật
vậy, căn cứ vào hai chi tiết trong 2 phúc âm khác, chúng ta có thể
thấy được điều này. Trước hết, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Thánh
Ký đã chú thích ở trong ngoặc đơn về Maria là chị em của Matta và Lazarô như
sau: “(Maria có Lazarô bị bệnh này là người đã xức dầu cho
Chúa bằng dầu thơm và lau khô chân Người bằng tóc của mình)” (11:2), đúng
như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm qua.
Trong Phúc Âm
của Thánh ký Marco, ở đoạn
liệt kê thứ tự các lần Chúa Kitô phục sinh hiện ra, mà người đầu tiên được
vị Thánh ký này liệt kê là
“Maria Magdalene”, một nhân vật nữ đã được thánh ký ghi chú thêm một
cách kỹ lưỡng như sau: “Người
trước hết đã hiện ra với Maria Magdalene là người được Người trừ cho
khỏi 7 quỉ”
(16:9), đúng
như những gì Thánh ký Luca ghi nhận trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tóm lại, căn cứ vào các đoạn Phúc Âm được trích dẫn liên quan đến nhân vật
mang tên Maria và Maria Magdalene, có thể kết luận rằng cả hai danh xưng này
chỉ là một nữ nhân vật duy nhất, đó là Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên được Giáo
Hội mừng kính hằng năm vào ngày 22/7.
Vậy Maria Magdalene cũng là Maria chị em của Matta và Lazarô ở Bêtania, có
thể là một
con người đã bỏ nhà đi hoang sống đời tội lỗi (x Lk 7:37) ở Magdala, một
thành ở Miền Bắc Galilêa, giữa thành Tiberia nằm ở bên dưới, và thành
Carphanaum nổi tiếng bên trên, "thành của Chúa Giêsu" như Thánh Mathêu gọi
(9:1), nơi chị có thể ở trong thành phần tội lỗi ở nhà của chàng thu thuế
Levi và được chứng kiến thấy thái độ cùng lời nói vô cùng nhân hậu của
Người (xem Mathêu 9:10-13) khi đó nên chị đã bị chinh phục, và từ đó chị đã tìm
gặp Người để tỏ lòng thống hối bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung của
mình (x Lk 7:47), “đã chọn phần tốt hơn” là lắng nghe lời Chúa (x Lk
10:42), đã khóc thương Lazarô khiến Chúa cũng cảm thấy mủi lòng trước nước
mắt của chị (x Jn 11:33), và đã trung kiên theo Chúa (còn hơn cả đa số các
vị tông đồ) cho tới khi đứng dưới chân thập giá Chúa với Mẹ Maria và Thánh
Tông Đồ Gioan (x Jn 19:25), nhờ đó chị thậm chí còn diễm phúc trở thành con
người đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh ưu tuyển hiện ra (x Mk 16:9), trước
cả các thánh tông đồ, và Người đã sai chị đi loan báo tin mừng phục sinh về
Người cho chính các tông đồ nữa (x Jn 20:17)!
Những người phụ nữ theo Chúa Kitô được Thánh ký Luca liệt kê trong bài Phúc
Âm hôm nay là thành phần khôn ngoan, thành phần được Thánh Phaolô liệt kê
trong Bài Đọc 1 hôm nay, hoàn toàn khác với "những
kẻ muốn làm giàu, họ sa vào cơn cám dỗ, vào cậm bẫy và nhiều dục vọng điên
rồ tác hại. Những cái đó làm con người ta chìm đắm vào chỗ điêu tàn và hư
hỏng. Bởi chưng gốc rễ mọi sự dữ là lòng tham tiền bạc. Một số người vì đeo
đuổi lòng tham này đã lạc mất đức tin và tự chuốc vào thân nhiều nỗi khổ
đau". Trái lại, cũng theo Thánh
Phaolô trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay, họ "theo
đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền
lành".
Chỉ có thành phần dám từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, sống
nghèo như Người, chẳng những về vật chất mà cả về tinh thần nữa, mới cảm
nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 48 ở bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tại sao tôi phải kinh hãi trong ngày tai hoạ, khi ác tâm quân thù mưu
hại bao bọc quanh tôi? Bọn người này tin cậy vào tài sản, chúng tự hào vì có
bạc vạn tiền muôn.
2) Nhưng thực ra không ai tự cứu được bản thân, cũng không ai dâng được
lên Chúa giá tiền thục mạng. Giá thục mạng quá đắt, không bao giờ có đủ, hầu
mong sống mãi đời đời, không phải nhìn coi sự chết.
3) Ðừng e ngại khi thấy ai giàu có, khi thấy tài sản nhà họ gia tăng:
bởi lúc lâm chung, họ chẳng mang theo gì hết, và tài sản cũng không cùng họ
chui xuống nấm mồ.
4) Dầu khi còn sống họ ca tụng mình rằng: "Thiên hạ sẽ khen ngươi, vì
ngươi biết khôn ngoan tự liệu", họ sẽ tìm đến nơi đoàn tụ của tổ tiên, những
người muôn thuở không được nhìn xem sự sáng.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1
Tm 6, 13-16
"Con hãy gìn giữ huấn lệnh cho tinh
tuyền, cho tới ngày Chúa lại đến".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, cha chỉ thị cho con
trước mặt Thiên Chúa, Ðấng làm cho muôn vật được sống, và trước mặt Ðức
Giêsu Kitô, Ðấng đã làm trước mặt Phongxiô Philatô lời tuyên xưng thẳng
thắn, con hãy giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách được
cho tới ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà tới thời đã định,
Ðấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra Người là Thiên Chúa, Vua các
vua và Chúa các chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh
sáng siêu phàm, không một ai trong loài người đã xem thấy, hay có thể xem
thấy: Vinh dự và quyền năng (xin kính dâng) cho Người muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2.
3. 4. 5
Ðáp: Hãy vào trước
thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá (c. 2c).
Xướng: 1) Toàn thể địa cầu, hãy reo
mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa với niềm vui vẻ! Hãy vào trước
thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa;
chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là
dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời
khen ngợi, vào hành lang với khúc ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh
Người. - Ðáp.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo,
lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn
thế hệ. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118,
34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa, và để con hết lòng vâng
theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 4-15
"Hạt rơi trong đất tốt, là những
người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại,
và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói
rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có
hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt
khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác
rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất
tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên
rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ
ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết
những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để
chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này:
Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người
đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu
độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận
lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ
thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng
khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp
nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những
người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên
nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXIV
Thường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại dụ ngôn người gieo
giống của Chúa Giêsu khi "có
đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu".
Hình ảnh "có
đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu" ở
ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay rất thích hợp với dụ ngôn người gieo giống là
Chúa Giêsu qua vai trò giảng dạy của Ngài, những lời giảng dạy như hạt giống
gieo vào tai, vào lòng thính giả, trong đó không phải ai cũng tiếp nhận hạt
giống này như nhau, mà là khác nhau, được chính Chúa Giêsu phân loại và tóm
gọn lại thành 4 hạng trong dụ ngôn của Người như sau:
"Người
gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống
bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên
đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi
gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc
lên và kết quả gấp trăm".
Bốn
hạng hay bốn loại thính giả lắng nghe lời Chúa hay đón nhận hạt giống lời
Chúa này ra sao và được hạt giống lời Chúa tác
dụng như thế nào nơi
bản thân họ, hay nói cách khác, hạt giống lời Chúa đã sinh hoa kết trái ra
sao nơi họ, tất cả đã được
Chúa Giêsu dẫn giải ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay theo lời yêu cầu của các
môn đệ:
"Dụ ngôn
đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ
đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng
họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi
nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng
nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là
những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và
thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi
trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện
hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Như
thế, căn cứ vào những gì được Chúa Giêsu dẫn giải, thì trình độ lãnh nhận
hay thái độ lãnh nhận lời Chúa được chia ra làm 4 cấp theo tác dụng của lời
Chúa, thứ tự như sau:
1- "Vệ đường" - Hững
hờ trong tâm linh: "Những
hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp
lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ". Trường
hợp này thường thấy nơi những con người chẳng tin tưởng gì hết, ngoài chính
bản thân họ,
họ chủ
quan, cố chấp, thành kiến, ý riêng, hoàn toàn sống theo bản tính tự nhiên và
buông thả, đến độ không cần bị cám dỗ họ cũng sa ngã, phạm tội mà không
biết, mất hết ý thức tội lỗi v.v.
2- "Sỏi Đá" - Nông
cạn trong cuộc sống: "Những
hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa,
nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách,
thì tháo lui". Thường
thấy xẩy ra trong
các cuộc tĩnh tâm, tham dự viên rất hào hứng khi nghe giảng, vổ
tay, cười lớn, thích thú, gật gù v.v. thế
nhưng sau đó vẫn tiếp tục sống với những gì phản lại với lời giảng mà họ cảm
thấy hay ho thấm thía nhất thời.
3- "Bụi gai" -
Bất ổn trong nội tâm: "Hạt
rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo
nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết
quả". Có
những Kitô hữu Công giáo rất thông thuộc lời Chúa, hay lập lại Lời
Chúa khi cần, nhắc nhở Lời Chúa cho kẻ khác, và
sống đời cầu nguyện một
cách kỹ lưỡng hằng
ngày,
cho tới khi
hoạt động đụng
chạm mới thấy trình độ thấm nhuần lời Chúa của họ tới đâu.
4- "Đất
lành" - Đáp ứng trong tin tưởng: "Còn
như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và
thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái". Mẫu
gương cho thành phần "đất lành chim đậu" này không ai hơn Đệ Nhất Tạo Vật
về ân sủng là Mẹ Maria, nhờ luôn suy niệm và đáp ứng lời Chúa (xem Luca
2:19,51), bởi thế Mẹ luôn đầy ân phúc và không bao giờ giảm một chút gì ân
phúc nơi Mẹ, trái lại, ân phúc càng đầy nơi Mẹ, càng làm cho Mẹ nên giống
Chúa hơn ai hết, đến độ Mẹ trở nên rực rỡ như
mặt trời (xem Khải
Huyền 12:1; Diễm Tình Ca 6:10),
và chỉ duy có một mình Mẹ mới là "hạt trổ sinh 100".
Thánh Phaolô đã khuyên dạy người môn đệ Timôthêu của ngài ở Bài Đọc 1 hôm
nay là hãy trở nên một mảnh đất tốt như thế này: "con hãy
giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách được cho tới ngày
Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà tới thời đã định, Ðấng phúc lộc
và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra Người là Thiên Chúa, Vua các vua và Chúa các
chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng siêu phàm,
không một ai trong loài người đã xem thấy, hay có thể xem thấy: Vinh dự và
quyền năng (xin kính dâng) cho Người muôn đời. Amen!"
Những tâm hồn được cho là mảnh đất tốt mới có thể xướng lên Thánh Vịnh 99 ở
bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy cuối tuần XXIX Thường Niên Năm C:
1) Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy phụng sự Thiên Chúa
với niềm vui vẻ! Hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa; chính Người đã tạo tác thân ta, và
ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn
nuôi.
3) Hãy vào trụ quan nhà Người với lời khen ngợi, vào hành lang với khúc
ca vui; hãy tán dương, hãy chúc tụng danh Người.
4) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và
lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ.
Thánh Piô Năm Dấu
23/9
Ngày 23 tháng 9
Thánh Pi-ô Pi-ết-ren-si-na, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô
nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành
Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo
việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni
Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm
nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích
Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo
khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô
chịu đóng đinh và ngày 23 tháng 9 năm 1968, người kết thúc
cuộc hành trình ở thế gian này.
Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ đã tìm cách chuẩn bị những viên đá
để xây nên ngôi đền vĩnh cửu, bằng những nhát đục đẽo miệt
mài và gọt giũa chuyên cần, tài khéo. Đó là điều mẹ rất dịu
hiền của chúng ta là Hội Thánh Công Giáo ca ngợi trong bài
thánh thi lễ cung hiến thánh đường. Và thật như vậy.
Bất cứ linh hồn nào được dành cho vinh quang vĩnh cửu có thể
được coi cách rất đúng như viên đá, để xây nên ngôi đền vĩnh
cửu. Kiến trúc sư xây nhà trước hết phải gọt đẽo những viên
đá xây ngôi nhà đó. Ông phải dùng búa dùng đục mà làm. Cha
trên trời cũng làm như thế đối với các linh hồn được tuyển
chọn. Những linh hồn này, do sự khôn ngoan và quan phòng
tuyệt vời của Người, đã được dành riêng từ thuở đời đời để
xây dựng ngôi đền vĩnh cửu.
Vậy linh hồn được dành cho hưởng vinh quang vĩnh cửu để trị
vì cùng Đức Ki-tô, cũng phải được gọt giũa bằng những nhát
búa nhát đục. Thiên Chúa là nhà Nghệ Sĩ dùng những thứ đó để
chuẩn bị đá là những tâm hồn được tuyển chọn. Những nhát
búa, những nhát đục đẽo đó là gì ? Chị ơi, đó là các bóng
tối, những sự sợ hãi, những cám dỗ, những sự buồn phiền
trong tâm trí, những nỗi sợ hãi về đường thiêng liêng, với
chút sầu não, và cả những đau đớn trong thân xác.
Vậy, chị em hãy tạ ơn lòng lành vô cùng của Cha muôn đời, vì
Người đối xử như vậy đối với linh hồn chị em, linh hồn đã
được dành sẵn cho ơn cứu độ. Tại sao không hãnh diện vì cách
cư xử đầy tình nghĩa của người cha tốt nhất trong các người
cha ? Chị em hãy mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa là vị lương y
của các linh hồn và phó thác mình vào cánh tay chí thánh của
Người, với đầy lòng tin cậy. Người xử với chị em như những
người được tuyển chọn để theo sát Đức Giê-su trên con đường
dốc lên đồi Can-va-ri-ô. Tôi vui mừng và vô cùng cảm động,
khi nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi chị em thế nào.
Chị em đừng hoài nghi rằng mọi sự xảy đến cho linh hồn chị
em là do Chúa xếp đặt. Vì thế đừng sợ rằng mình sa vào sự dữ
hoặc xúc phạm đến Thiên Chúa. Chị em chỉ cần biết rằng :
trong toàn bộ cách sống, chị em đã không bao giờ xúc phạm
đến Chúa, trái lại Người đã được tôn vinh mỗi ngày một hơn.
Nếu Đấng Phu Quân vô cùng nhân hậu của linh hồn chị em ẩn
mình, thì, không phải như chị em nghĩ, là vì Người muốn trả
thù sự bất trung của chị em, mà chỉ là vì Người thử thách sự
trung thành và kiên trì của chị em và chữa trị chị em cho
khỏi một số bệnh tật, mà con mắt xác thịt không nhìn thấy,
là những bệnh tật và sai lỗi ngay cả người công chính cũng
không thoát khỏi. Thật vậy, Sách Thánh nói : Người
công chính ngã bảy lần.
Chị em hãy tin tôi : giả như tôi không biết là chị em buồn
sầu như vậy, thì tôi sẽ kém vui, vì tôi sẽ hiểu là Chúa ban
cho chị em ít viên ngọc hơn. Hãy xua đuổi như những cám dỗ
các hoài nghi ngược lại... Cũng hãy xua đuổi những hoài nghi
về cách sống của chị em, nghĩ rằng chị em không nghe tiếng
Chúa kêu gọi và bỏ ngoài tai những lời mời ngọt ngào của
Đấng Phu Quân. Tất cả những điều đó không phát xuất từ thần
khí tốt mà là từ thần khí xấu. Đó là những mưu ma chước quỷ
nhằm làm cho chị em rời xa sự hoàn thiện, hay ít là chậm
bước trên con đường tiến về đó. Chị em đừng nản lòng !
Khi Đức Giê-su tỏ mình ra, chị em hãy tạ ơn Người ; nếu
Người ẩn mình, cũng cứ tạ ơn Người : đó là những trò vui của
tình yêu. Tôi muốn chị em cùng Đức Giê-su trao phó mạng sống
trên thập giá và cùng Đức Giê-su kêu lên : Đã
hoàn tất.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh
Pi-ô, linh mục, ơn đặc biệt là được chung phần thập giá với
Con Chúa, và nhờ thừa tác vụ của thánh nhân, Chúa đã tái
thực hiện những kỳ công của lòng Chúa thương xót. Nhờ lời
thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con luôn được kết hợp
với cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô để mai sau đạt tới vinh
quang phục sinh. Chúng con cầu xin
3 Phụ Bản về Thánh Piô Năm Dấu:
fr.aleteia.org,
2017-04-24
Chúng ta biết Thánh Dòng Capuxinô của San Giovanni Rotondo không tránh
được thử thách nhưng ngài cũng có rất nhiều ơn lớn đền bù lại. Tuy nhiên
ít ai biết tính hài hước của ngài!
San Giovanni Rotondo là một thành phố của bang Foggia trong vùng
Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio đã sống ở đây từ năm 1916 cho
đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây San Giovanni Rotondo là thành
phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng bây giờ San Giovanni Rotondo là
thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi hành hương về thăm Cha Pio kể từ
những năm 1930.
Đi đứng cẩn
thận nghe!
Một ông đi đến tận San Giovanni Rotondo để gặp Cha Pio, nhưng có rất
đông người ở đó nên ông phải đi về nhà mà không gặp được ngài. Trong lúc
ông đi xa tu viện, thì ông ngữi thấy một mùi hương từ các thánh tích của
cha và ông cảm thấy mình được an ủi.
Vài tháng sau, khi ông đi qua một vùng núi, ông cũng ngữi thấy một mùi
hương như vậy. Ông ngừng lại và ông ngây ngất trong một lúc khi ngữi
thấy mùi hương thơm ngát. Khi sực tỉnh lại thì ông thấy mình ở bên bờ
vực thẳm, không có mùi hương của Cha Pio thì e ông đã tiếp tục đi tới.
Ông quyết định đi về San Giovanni Rotondo ngay lập tức để cám ơn Cha
Pio. Khi ông đến tu viện, Cha Pio từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp ông,
ngài gọi ông lại vừa cười vừa nói: “Con của ta, lần sau đi đứng cẩn thận
nghe!”.
Dưới tấm nệm
Một phụ nữ bị bệnh nhức đầu kinh khủng đến mức bà quyết định để một tấm
hình của Cha Pio dưới gối, hy vọng cơn đau sẽ hết. Sau nhiều tuần, cơn
nhức đầu vẫn còn; tính khí nóng nảy của người Ý làm bà than lên: “Này
Cha Pio, cha không làm cho con hết bệnh, con phạt cha, con để cha dưới
tấm nệm”.
Vài tháng sau bà đến San Giovanni Rotondo để xưng tội với Cha Pio. Bà
vừa quỳ vào tòa giải tội thì cha nhìn bà chăm chăm, cha đóng cánh cửa
tòa giải tội một cái rầm. Bà hoảng người, bà không hiểu tại sao cha phản
ứng như vậy, bà không thốt nên lời. Vài phút sau, cánh cửa tòa giải tội
mở ra, Cha Pio vừa cười vừa nói với bà: “Đúng là con không hài lòng phải
không? Để thế cho con biết, cha cũng không hài lòng khi con để cha dưới
nệm!”.
Các lời
khuyên của Cha Pio
Một linh mục Argentina nghe tiếng các lời khuyên của Cha Pio, linh mục
quyết định đi đến tận Ý với mục đích duy nhất là xin lời khuyên quý báu
của ngài để ngài hướng dẫn mình trong đời sống thiêng liêng. Khi đến
nơi, linh mục đi xưng tội với cha và về nhà mà không nhận một lời khuyên
nào.
Về lại Argentina, linh mục rất thất vọng, cha thấy có nhu cầu phải nói
cho mọi người biết. Linh mục lấy làm tiếc: “Tôi không hiểu tại sao Cha
Pio không nói gì với tôi. Vậy mà tôi đi từ Argentina qua Ý để chỉ muốn
nghe lời khuyên của ngài… Cha Pio đọc được trong tư tưởng người khác,
ngài biết là tôi đến chỉ để xin ngài lời khuyên”. vv và vv…
Cha than phiền đến mức mà các giáo dân bắt đầu hỏi cha: “Cha, cha có
chắc là Cha Pio không nói gì không? Cha Pio có làm cử chỉ gì khác thường
không?”.
Vị linh mục từ từ suy nghĩ và cuối cùng cha nhớ lại Cha Pio có làm một
cử chỉ hơi là lạ. Cha giải thích cho các giáo dân: “Ngài ban phép lành
cuối cùng cho tôi, ngài làm dấu thánh giá cực kỳ chậm, đến mức tôi nghĩ,
e chẳng khi nào xong?” Nghe xong, các giáo dân kêu lên: “Vậy là Cha Pio
đã cho cha lời khuyên! Cha, cha ban phép lành quá nhanh, giống như cha
làm nguệch ngoạc cho xong chứ không phải làm dấu thánh gia!ù”. Nghe
xong, vị linh mục vui mừng vì cuối cùng cha biết được lời khuyên đặc
biệt của Cha Pio.
Người giữ nhà
và các tên trộm
Các tên trộm hoành hành ở một khu phố Rôma làm cho một người dân ở đó
không đi thăm Cha Pio được. Nhưng cuối cùng ông đi, ông khóa cửa kỹ và
“ra điều kiện” cho Cha Pio: “Cha, bây giờ con đi thăm cha nhưng cha giữ
nhà cho con…”.
Khi đến San Giovanni Rotondo, ông xưng tội với Cha Pio. Ngày hôm sau,
ông đến chào cha để đi về, cha trách ông: “Con, con còn ở đây à? Cha
đang toát mồ hôi giữ cửa cho con!”.
Ông đi về nhà ngay lập tức, lòng chưa hiểu ngài muốn nói gì với mình. Về
đến nhà, ông nhận ra bọn trộm đã đến, chúng đã bẻ ống khóa nhưng trong
nhà không mất gì hết”.
Trẻ con và
kẹo bánh
Một phụ nữ đã lâu không đến thăm Cha Pio, bà khổ sở nghĩ cha đã quên
mình. Như thường lệ, một buổi sáng nọ, sau khi phó giao con gái mình cho
cha che chở, bà đi lễ. Khi về nhà, bà thấy con mình đang ăn kẹo
ca-ra-men. Ngạc nhiên bà hỏi con “ai cho con kẹo?”. Đứa bé vui vẻ chỉ
hình Cha Pio treo bên trên cái “cũi em bé” mà mỗi lần bà đi vắng chốc
lát bà để con vào đó. Nghe con kể, bà mẹ không lấy làm quan trọng gì.
Sau một thời gian, lại lo không biết Cha Pio đã quên mình chưa, bà đến
thăm cha. Sau khi xưng tội, bà hôn tay cha. Khi đó cha vừa cười vừa hỏi
bà: “Con, con cũng muốn cây kẹo ca-ra-men phải không?”.
Một người sói
tóc
Một người bị rụng tóc nhưng dứt khoát không muốn mình bị sói. Một ngày
nọ ông đến gặp Cha Pio và xin cha: “Xin cha cầu nguyện để tóc của con
đừng rụng nữa”.
Chính lúc đó thì Cha Pio đi xuống cầu thang. Ông lo lắng nhìn cha mong
cha trả lời cho mình. Khi đến gần cha, ông thấy nét mặt của cha thay
đổi, và với một cái nhìn như đề nghị một cái gì với ông, ngài chỉ một
người đang ở sau lưng ngài, ngài nói với ông: “Con giới thiệu con với
ông ấy đi”. Ông quay lại thì thấy một linh mục sói tóc hoàn toàn, cái
đầu láng bóng như tấm gương. Và mọi người cười ngất.
Ném giày
Một giáo dân của Cha Pio bị đau răng khủng khiếp, đau đến mức không chịu
nổi, vợ của ông đề nghị: “Tại sao anh không cầu nguyện với Cha Pio để
cha chữa cho bớt đau? Đây, hình của cha đây, anh cầu nguyện với cha đi”.
Ông chồng giận dữ la hét: “Đau răng như thế này, em không có thuốc men
gì mà bắt anh cầu nguyện hả?”. Ông cầm chiếc giày ném hết sức mình vào
hình của Cha Pio.
Vài tháng sau bà vợ thuyết phục được chồng đi xưng tội với Cha Pio ở San
Giovanni Rotondo. Ông quỳ trong tòa giải tội và ông đọc một dọc các tội
của mình. Nghe ông đọc xong, cha Pio nói với ông: “Có tội nào con quên
không?”. “Dạ hết rồi!”. “Hết thật rồi à? Vậy còn tội con ném chiếc
giày ngay mặt cha thì sao?!”
Một lời chào
“lớn thật lớn!”
Cô con gái thiêng liêng của Cha Pio ở lại San Giovanni Rotondo ba tuần
với mục đích duy nhất là được xưng tội với cha. Không xưng được, cô chưa
muốn về lại Thụy Sĩ vì cô quá buồn. Bỗng cô nhớ, mỗi ngày cha thường ra
cửa sổ ở căn phòng nhỏ của ngài để ban phép lành.
Lòng đầy hy vọng, cô nghĩ, ít nhất là mình có thể nhận phép lành của cha
trước khi về. Cô đi nhanh về phía tu viện. Trên đường đi, cô mong: “Mong
sao cha chào cho riêng mình một lời chào “lớn thật lớn”. Khi đến tu
viện, cô chỉ thấy còn vài người rải rác. Cha Pio đã ban phép lành. Cha
đã chào tất cả mọi người, cha dùng khăn tay trắng phất phất để chào và
cha đã về phòng nghỉ ngơi.
Một nhóm phụ nữ lần hạt mân côi ở đó cho cô biết như vậy, cô đừng hoài
công chờ. Cô không thất vọng, cô quỳ xuống cùng với các bà khác, trong
lòng thầm thì: “Không sao, con chỉ mong có được lời chào “lớn thật lớn”
cha dành riêng cho con. Vài phút sau, cửa sổ căn phòng Cha Pio mở ra và
cha ban phép lành lại, cha dùng tấm khăn trải giường phất phất thay vì
dùng khăn tay trắng như thường lệ. Ai cũng cười, một bà còn nói: “Nhìn
kìa, hôm nay cha điên rồi!”.
Người con gái thiêng liêng của cha cảm động, nước mắt tuôn trào vì cô
biết, đó là lời chào “lớn thật lớn” mà cô đã xin cha chào cô.
Đứa con trai
và các viên kẹo
Từ lâu đứa con trai của một ông đội dân vệ mơ có chiếc xe lửa bằng điện.
Ngày Lễ Ba Vua sắp đến, em đến trước ảnh Cha Pio treo trên tường hứa:
“Cha Pio nghe con nè, nếu cha làm sao cho con có một chiếc xe lửa bằng
điện, con sẽ cho cha một túi kẹo”.
Ngày Lễ Ba Vua đến, đứa con trai nhận được chiếc xe lửa em mong chờ lâu
nay. Sau đó, em theo dì đến Giovanni Rotondo thăm cha. Cha Pio âu yếm
cười hỏi em: “Còn túi kẹo của cha đâu?”.
Vì hai trái
vả!
Một ngày nọ, một bà rất sùng kính Cha Pio đã ăn quá hai trái vả. Bị dày
vò vì nghĩ mình tham ăn, bà hứa là sẽ đi xưng tội với cha khi có dịp.
Và dịp may đến, bà đi San Giovanni Rotondo. Sau khi xưng tội xong, bà lo
lắng xưng thêm: “Thưa cha, con có cảm tưởng con đã quên một tội và có
thể đây là một tội khá khá nặng”. Cha trả lời: “Con đừng lo, hai trái vả
thì chẳng có gì là nặng!”.
Con nghĩ là
cha sẽ lấy nàng sao?
Cha Pio cử hành một thánh lễ hôn phối. Khi đến lúc quan trọng của buổi
lễ, vì quá xúc động, chú rể không tài nào nói “vâng” theo nghi thức
được.
Cha Pio chờ một lúc, rồi cha cười khuyến khích anh, nhưng cố gắng bằng
mấy anh cũng không nói được, cuối cùng cha la lên: “Con muốn nói “vâng”
hay con nghĩ chính cha sẽ lấy… cô dâu?!”.
Cha, xin cha
cầu nguyện cho các con còn nhỏ của con
Một bà rất mộ đạo, bà không cách nào ngủ được nếu không giao phó tất cả
con mình cho Cha Pio. Chiều nào bà cũng quỳ trước ảnh của Cha Pio và
xin: “Cha Pio, con xin giao phó các con của con cho cha”.
Trong ba năm trường, tối nào cũng lặp lại một lời cầu nguyện này, cuối
cùng bà đến được San Giovanni Rotondo. Khi bà gặp cha, bà nói: “Thưa
cha, con xin giao phó các con của con cho cha”. Cha trả lời: “Con của
cha, cha biết. Đã ba năm nay, ngày nào con cũng lặp lại cùng một chuyện,
mỗi ngày!”.
Còn con thì
con cười chế nhạo phải không?
Một phụ nữ ngưỡng mộ Cha Pio, mỗi ngày bà đều có thói quen quỳ cầu
nguyện trước ảnh Cha Pio để xin cha ban phép lành cho mình. Chồng của bà
cũng rất ngưỡng mộ cha, nhưng ông không thể nào nhịn cười vì ông thấy vợ
mình làm quá. Tối nào cũng lặp lại cảnh này giữa hai vợ chồng.
Có dịp hai vợ chồng cùng đi thăm Cha Pio. Ông chồng nói với cha: “Thưa
cha, tối nào vợ con cũng xin cha ban phép lành”, Cha Pio trả lời: “Còn
con thì con cười chế nhạo phải không?”.
Marta An Nguyễn dịch
San Giovanni Rotondo là một thành
phố của bang Foggia trong vùng Pouilles miền Nam nước Ý. Cha Thánh Pio
đã sống ở đây từ năm 1916 cho đến khi ngài qua đời năm 1968. Trước đây
San Giovanni Rotondo là thành phố sống về chăn nuôi, trồng trọt nhưng
bây giờ San Giovanni Rotondo là thành phố du lịch trù phú nhờ khách đi
hành hương về thăm Cha Pio kể từ những năm 1930.
catholicnewsagency.com, Elise Harris, 2016-09-22
Nổi tiếng trên thế giới với tên ngắn gọn “Cha Piô”, Cha Thánh Piô
Pietrelcina được xem là một trong “các thánh tích cực nhất” của Giáo
hội. Ngài tiếp tục làm phép lạ cho những ai cầu bàu đến ngài.
Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin AIIC, linh mục John Paul Zeller, Dòng
Phanxicô Truyền giáo ở Birmingham, Alabama, nước Mỹ đã tuyên bố: “Cha
Thánh Piô là một trong những người cầu bàu rất mạnh … Một linh mục nói
với tôi, có thể đây là một trong các thánh tích cực nhất của Giáo hội”.
Linh mục Zeller có được thánh tích Cha Piô, cha cho biết chính mình đã
là chứng nhân của nhiều phép lạ sau khi cầu bàu với thánh tích của ngài
trong tay.
Mới đầu cha Zeller không sốt sắng đặc biệt gì với Cha Piô, nhưng một năm
sau khi đi San Giovanni Rotondo về và sau lần phong thánh Đức
Gioan-Phaolô II năm 2014, thì cha có một lòng sốt sắng với Cha Piô. San
Giovanni Rotondo là nơi Cha Piô đã ở suốt đời và phục vụ tại đó.
Sau khi tìm hiểu cuộc đời của Cha Piô, cha Zeller rất xúc động, cha lấy
hết can đảm để xin một trong các bề trên ở San Giovanni Rotondo thánh
tích của Cha Piô. Bề trên cho không những một mà hai thánh tích, đó là
mẫu băng có dính máu Cha Piô trong các dấu thánh của ngài.
Cha Piô sinh ngày 25 tháng 5-1887 trong một gia đình mộ đạo ở
Pietrelcina, nước Ý. Cha có tên thật là Francesco Forgionele. Năm 15
tuổi cha vào Dòng Capuxinô. Cha nhận dấu thánh suốt 50 năm trong cuộc
đời của mình. Cha đã làm rất nhiều điều kỳ diệu và phép lạ, chữa lành,
soi thấu tâm hồn, bay lên khỏi mặt đất, ở hai nơi cùng một lúc.
Linh mục Zeller cho biết, sau khi nhận hai thánh tích, cha trao lại cho
cộng đoàn của mình do Mẹ Angelica thành lập một thánh tích và mình được
phép giữ một thánh tích.
Cha nói: “Tôi luôn giữ thánh tích này trong người, vì tôi là Giám đốc tổ
chức hành hương của trụ sở EWTN ở Birmingham, nên tôi có dịp cầu nguyện
với nhiều người”.
Cha giải thích: “Tôi cầu nguyện với nhiều người và có những trường hợp
được chữa lành. Nhiều người đến sau một tháng, có khi sau một năm cho
tôi biết họ đã được lành nhờ cầu nguyện với thánh tích”.
Một kinh nghiệm như vậy đã xảy ra các đây vài tháng trong lần chữa lành
ở đền thánh Trái Tim Cực Thánh ở Hanceville nhân ngày lễ Đức Mẹ Fatima,
cha và hai linh mục khác cầu nguyện với hai thánh tích của Cha Piô, cùng
với chiếc găng của Cha Piô thuộc về Mẹ Angelica. Khi cầu nguyện, một phụ
nữ bị đau thần kinh tọa đến xin cầu nguyện cho bà. Sau này bà đến nói
với cha, khi về chỗ ngồi, bà nói với chồng “tôi đã được lành”.
Chứng thần kinh tọa là bệnh đau lưng, rất đau và thường không dứt hẳn
nhưng phụ nữ này đã được lành hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích.
Một trường hợp khác, sau một thời gian không lâu nhận thánh tích, cha
Zeller có dịp nói chuyện với bạn của mình và biết con gái 12 tuổi của họ
bị đau tai lâu năm. Cha hỏi em bé xem cha có được cầu nguyện với thánh
tích cho em không, em đồng ý, “tôi cho mẹ em và cho em thấy thánh tích
và tôi hỏi em đau tai nào!”
Cha kể, khi cha vừa đặt thánh tích vào tai và bắt đầu cầu nguyện thì em
té xuống đất. “Em hoàn toàn tuột khỏi tay tôi. Tôi có thể níu em lại,
nhưng tôi không biết chuyện gì xảy ra, tôi rất sợ có chuyện gì xảy đến
cho em, nhưng em hoàn toàn vuột khỏi tay tôi và té xuống đất. Cha cho
biết khi mình đang lo thì mẹ của em bình tĩnh và nói ‘có thể là được
chữa trong Thần Khí’”.
Cha nói: “Nhiễm trùng tai hoàn toàn khỏi hẳn, từ lúc đó theo những gì
tôi biết thì em không còn bị nhiễm trùng lại”.
Trong một trường hợp khác, có một phụ nữ bị đau tim trong vòng 40 năm,
bà đau suốt đời, cha cho biết mình không có thì giờ để biết thêm nhiều
chi tiết nhưng bà khỏi hẳn sau khi cầu nguyện với thánh tích của Cha
Piô.
Cha giải thích: “Đây là câu chuyện dài hơn thế, nhưng bà lành hẳn”. Cha
cũng nhắc đến một trường hợp khác, một bà vừa đến nói với cha, bà được
lành bệnh nhờ cầu nguyện với thánh tích.
Nhắc đến các việc chữa lành lành, cha Zeller nhấn mạnh, không phải cha
chữa lành nhưng nhờ lời cầu bàu với Cha Piô.
Cha cho biết, cách đây vài năm mình không có một lòng sốt sắng đặc biệt
với Cha Piô, linh mục nói, cha cảm nhận có một nối kết bất ngờ đến với
mình vì Cha Piô chọn cha chứ không phải ngược lại.
Cha tuyên bố: “Một trong các giáo sư chủng viện thường hay nói với chúng
tôi, chúng ta không chọn các thánh, chính các thánh chọn chúng ta. Nếu
chúng ta có một cảm tính đặc biệt với thánh nào… Tôi nghĩ thật sự các
thánh đã chọn chúng ta, chứ không phải chúng ta chọn các ngài”.
Cha Thánh Piô là “ người anh em vui vẻ”, cha Zeller giải thích mình luôn
nghĩ Cha Piô “rất nghiêm” và sợ cầu bàu với cha, sợ Cha Piô nghiêm với
mình. Tuy nhiên trong chuyến đi đến San Giovanni Rotondo, cha hiểu Cha
Piô hơn, theo cha Zeller, bề ngoài Cha Piô có vẻ nghiêm là vì “ngài biết
khi giáo dân không ăn năn hối cải”.
Cha nói: “Cha Piô lo cho sự cứu rỗi các tâm hồn. ngài quan tâm và mang
lòng thương xót Chúa, mang sự tha thứ của Chúa đến cho giáo dân”.
Hàng năm vào tháng 9, nhân kỷ niệm ngày Cha Piô qua đời, giáo dân khắp
nơi tụ về giáo xứ Rôma San Salvatore ở Lauro, bên cạnh Piazza Navona,
Rôma, một trung tâm dành cho các sinh hoạt liên hệ đến ngày lễ của Cha
Piô. Tại đây có rất nhiều thánh tích của Cha Thánh Piô, áo măng-tô, găng
tay, khăn các phép và khăn thấm máu trong các dấu thánh cha mang suốt 50
năm đời mình.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Tượng
Cha Piô giúp Chúa Giêsu vác thánh giá ở nhà thờ Rôma San Salvatore
Trích
sách “Lời hay ý đẹp của Cha Piô”, Pascal Cataneo, Nxb Médiaspaul
Carlo Campanini là một trong các người con thiêng liêng được Cha Piô yêu
mến, ông cũng là một diễn viên nổi tiếng, một ngày nọ ông nói với chúng
tôi: “Cha Piô thích kể chuyện đùa, về chuyện này cha giỏi hơn tôi. Cha
nắm được nghệ thuật làm ngắn gọn và đối đáp như một diễn viên lớn”.
Trên lãnh vực này, chúng ta có thể tin ở ông. Một ký giả nổi tiếng viết:
“Cha Piô là người có tài kể chuyện, sống động và xuất sắc. Đặt cha vào
chân tường, cha có thể dụ dỗ rất giỏi để thoát ra. Nếu chưa thoát ra
được, cha sẽ làm cho người đối diện lạc hướng bằng những lối đi kỳ quái,
những lời nói châm biếm. Cha có thể viện đến tài bắt chước của nghệ sĩ
mà một thính giả thông minh, dù đã cảnh giác cũng không thể không mến
chuộng. Nhưng nhất là nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh, một năng khiếu hiếm
hoi không ai là không thấy”.
Hơn nữa nghệ thuật ăn nói hóm hỉnh của cha không bao giờ là ngẫu nhiên,
cha dùng nó trong sứ vụ chức thánh của mình. Những câu chuyện hài của
Cha Piô thì nhiều vô số kể. Tôi chỉ ghi lại một số chuyện để độc giả có
một khái niệm về tính hài hước của cha.
Một tân binh
chuẩn bị đón vua
Một trung sĩ chuẩn bị cho một tân binh để anh này trả lời các câu hỏi
của vua khi vua đến thăm trại. Ông trung sĩ dạy cho anh học thuộc lòng
các câu vấn đáp sau:
– Anh mấy tuổi?
– Hai mươi hai tuổi.
– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?
– Hai năm.
– Anh nguyện phục vụ ai nhất: vua hay tổ quốc?
– Cả hai!
Ông vua đến, và xui xẻo cho anh, ông vua không hỏi theo thứ tự mà anh
tân binh học, nhưng hỏi như sau:
– Anh phục vụ được bao nhiêu năm rồi?
– Hai mươi hai năm.
– Anh mấy tuổi?
– Hai.
Ông vua sốt ruột kêu lên:
– Hoặc là anh ngu, hoặc tôi ngu!
Anh tân binh trả lời:
– Cả hai!
Cha Piô cười
trong khi nghe giảng
Một trong các bạn tu của Cha Piô thấy cha cười đang khi nghe giảng.
Người bạn hỏi thẳng cha: “Cha, vì sao hôm qua cha cười khi nghe giảng về
cái chết?”
Cha Piô trả lời bằng tiếng địa phương vùng Napoli: “Tôi phải làm gì bây
giờ? Tôi không thể nhịn được: một vài người giảng làm cho mình cười bất
cứ cái gì, kể cả cái chết!”
Cha Piô không
sợ sét đánh
Một ngày nọ, Cha Piô và một bạn đồng tu ở trong hành lang khi có cơn
giông bảo sấm sét lớn. Bạn của cha thấy sét đánh rất gần. Sợ hãi, ông
nói với cha và lưu ý cha vì họ ở gần cột điện, ông nói: “Cha, ít nhất
mình đi xa cột điện này. Ngày hôm qua, sét đánh chết mười người!” Cha
Piô trả lời: “Vậy thì sao phải sợ, mình không bị hiểm nguy này, mình chỉ
có hai!”
Cha Piô… chỉ
có hai mươi xu
Một ngày nọ, Cha Piô kể cho các bạn nghe câu chuyện những ngày đầu cha
nhận năm dấu thánh. Đó là năm 1922 hoặc 1923.
Một thợ chụp hình muốn khai thác sự kiện này, ông chụp vài tấm hình Cha
Piô. Trên thực tế, nó không thành công cho mấy nhưng ông cũng in ra, ông
giao cho một chú bé và nói nó đi bán hai mươi xu một tấm. Chú bé không
khôn ngoan, lảng vảng ở khu vực gần tu viện, em thấy cha nghiêng người
qua cửa sổ, vẻ mặt dễ sợ hét to: “Thằng bé kia! Ta sẽ trừng trị con, con
đã bán ta vì hai mươi xu!” Đứa bé sợ quá bỏ chạy.
Cha Piô quay lại với các bạn và nói: “Dù vậy, ít nhất người ta có thể
bán tôi đắt hơn!”
“Đi nói với
giáo sư Lunedei…”
Một diễn viên nổi tiếng kể một trong những người bạn của anh được một
giáo sư bác sĩ rất giỏi ở Florence săn sóc, người bạn kể với bác sĩ là
ông muốn đến San Giovanni Rotondo để gặp Cha Piô. Vị giáo sư than trời:
“Sao! Bạn đi gặp ông cuồng loạn đó sao? Về mặt khoa học, đó là người
cuồng loạn! Cứ nghĩ đến Chúa Giêsu bị đóng đinh thì dấu thánh sẽ đến!”
Các lời nói này không làm lung lay ông, ông lên đường. Khi gặp Cha Piô
và xưng tội xong, ông kể cho Cha Piô nghe lời ông bác sĩ nói. Cha trả
lời: “Khi con về gặp giáo sư bác sĩ, con nói ông nên nghĩ nhiều về con
bò để xem mình có mọc sừng không!”
Tổng thống
nước Cộng hòa đến thăm…
Một ngày nọ, Tổng thống nước Cộng hòa Antonio Segni đến thăm Cha Piô.
Ông giới thiệu phái đoàn đi cùng, trong đó có dân biểu Russo. Khi Cha
Piô nghe chữ “Russo” (Nga)
Cha Piô hỏi: “Trọng kính Đức Vua, vì sao Ngài chỉ mang đến một người Nga
đến? Xin Ngài mang nhiều người Nga đến cho tôi!”
“Với cái đầu
của con…”
Một trong các bà được cho là người làm “say đắm”, theo năm tháng bà già
đi, xấu đi và chỉ còn là cái bóng của mình.
Bà bắt đầu suy nghĩ đến những chuyện phù du của cuộc đời và cảm thấy cần
bám vào các giá trị vững bền. Bà quyết định đi xưng tội với Cha Piô.
Nhưng để đến gần cha, bà phải ghi tên và chờ đến lượt mình. Bà không nản
lòng, ngược lại là đàng khác, để chắc ăn được gặp cha, bà ghi tên hai
lần. Bà kiên nhẫn chờ và khi đến lượt mình, bà đi xưng tội. Ngày hôm sau
đến lần thứ nhì, nhưng khi cha thấy bà, cha nói: “Con mới xưng tội hôm
qua, con cần gì ở cha nữa?”
– Nhưng từ hôm qua đến nay, con có thể có thêm tội!
– Đi đi! Với cái đầu của con, không phải dễ phạm tội như con nghĩ đâu!”
Một sự tiếp
đón trớ trêu
Một ngày nọ có hai nghệ sĩ đến thăm Cha Piô. Khi cha thấy họ ở hành
lang, cha kêu lên: “Nhìn kìa các vẻ mặt này!”
Sau đó, người tháp tùng giới thiệu họ với cha: “Thưa cha, các nghệ sĩ
này bây giờ quyết định không làm việc với cái chân của họ nữa, họ bắt
đầu làm việc với cái đầu”, Cha Piô cắt gọn: “Thì họ cứ làm! Quan trọng
là họ sửa sai”.
Rồi khi từ giã họ, cha nói: “Quý vị tiếp tục hạ mình nhé! Tóm lại, quý
vị chưa bao giờ được vinh dự! Quý vị thay đổi ngay, nếu không tôi đuổi
quý vị!”
“Nào, đã đến
lúc!”
Linh mục Costantino Capobianco kể, với thời gian cha không còn nghe gì
và cha rất khổ vì bị như vậy. Để giúp cha, cha Bề trên mua cho cha máy
trợ thính, cha nghe được hơn.
Một ngày nọ, trong một buổi trò chuyện, Cha Piô hỏi xem nếu không có máy
trợ thính cha Costantino có nghe được không. Cha trả lời mình sẽ không
nghe được gì. Cha Piô xin cha rút máy ra một lúc, và khi cha Costantino
rút máy ra, Cha Piô nói với các bạn: “Nào, bây giờ mình có thể nói xấu
cha Costantino!”
“Vậy thì lỗi
ở ai?!”
Cha Carmelo da Sessano là cha Bề trên tu viện khi cha nhận lệnh của
Rôma, cho phép một nhóm nhân viên đài truyền hình đến quay phim một vài
sinh hoạt hàng ngày của Cha Piô. Cha Piô phải chịu vì cha Bề trên xin
Cha Piô để cho họ làm. Cha nghĩ là họ sẽ không quay lâu.
Khi cha rời phòng để xuống nhà nguyện dâng thánh lễ thì cha thấy nhóm
quay phim đang chuẩn bị quay. Rồi cha đến dâng lễ ở bàn thờ Thánh
Phanxicô nơi cha dâng lễ thời đó. Nhưng khi nghe tiếng máy quay phim kêu
rè rè thì cha bực mình, quay phắt lại và kêu lên: “Hoặc là quý vị ngừng,
hoặc là tôi ngừng! Tôi đi và tôi không làm lễ!”
Và thế là họ phải ngưng quay phim như dự trù, nhưng sau đó họ cũng quay
lại, lúc được lúc không các sinh hoạt trong ngày của Cha Piô, ngài thì
cố gắng không để ý nhiều chừng nào hay chừng đó và cũng giảm quay phim
nhiều nhất có thể. Khi quay xong, cha Bề trên cho Cha Piô biết, tất cả
nhân viên quay phim muốn cám ơn cha và muốn được cha ban phép lành. Cha
Piô chấp nhận và tiếp nhóm quay phim, họ xin lỗi đã làm phiền cha; rồi
họ cũng nói không phải lỗi của họ, họ chỉ tuân hành lệnh của cấp trên.
Khi đó Cha Piô cha phản hồi với giọng yếu ớt: “Quý vị nhận lệnh và đó
không phải là lỗi của quý vị. Cha bề trên tu viện nhận lệnh và đó không
phải lỗi của cha. Các cha bề trên Tỉnh Dòng nhận lệnh và đó không phải
lỗi của họ. Vậy thì… lỗi của ai?…”
“Cha phải ban
phép lành như thế nào đây? Đổ một xô nước trên đầu con sao?”
Cô Grazia, một nông dân 29 tuổi bị mù từ bẩm sinh, cô thường hay đi lễ ở
ngôi nhà thờ nhỏ của tu viện San Giovanni Rotondo. Một ngày nọ Cha Piô
hỏi cô Grazia cô có muốn thấy không. Cô trả lời rất muốn, miễn là ơn này
không làm cho cô phạm tội. Cha nói cô sẽ lành và cha gởi cô đến bác sĩ
Durante, một bác sĩ giải pháp rất giỏi ở Bari.
Khi khám cho cô, bác sĩ nói giải phẫu cũng sẽ không làm cho cô thấy..
Ông khuyên cô nên xin Cha Piô làm phép lạ… Nhưng vợ của ông bác sĩ có
mặt ở đó, bà nói nếu Cha Piô gởi bệnh nhân này đến là dấu hiệu bác sĩ có
thể làm một cái gì. Vì sao mình không thử? Được thuyết phục, ông bác sĩ
mổ cho bệnh nhân.
Ông mổ một con mắt… và cô Grazia thấy được với con mắt này. Ông mổ con
mắt thứ nhì và Grazia thấy cả hai mắt. Ông bàng hoàng và không thể tìm
được một lời giải thích nào đứng vững! Khi về lại San Giovanni Rotondo,
cô Grazia chạy như bay đến cám ơn Cha Piô. Cô quỳ gối xuống trước mặt
cha, người lần đầu tiên cô thấy, cô nói cho cha biết niềm vui, sự ngưỡng
mộ và lòng biết ơn của mình. Cha Piô đứng bất động nhìn cô, im lặng và
mỉm cười. Cô Grazia xin cha ban phép lành, cha làm dấu thánh giá trên
trán cô. Nhưng cô Grazia cứ nài nỉ: “Xin cha ban phép lành cho con, xin
cha ban phép lành cho con!”
Rốt cùng Cha Piô phải kêu lên: “Cha phải ban phép lành như thế nào đây?
Đổ một xô nước trên đầu con sao?!”
Marta An Nguyễn dịch
Ngày 16/11/2021, giữa đại dịch toàn
cầu vẫn còn hoành hành, trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích
Phục Sinh 12 ngày 8-19/11/2021,
phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) đã đến San Giovanni
Rotondo để kính viếng Cha Thánh Piô Năm Dấu
vào một buổi sáng mưa duy nhất trong suốt thời gian hành hương,
và đã chụp được một số hình ảnh sau đây:
Một ngày kia, người con gái thiêng liêng của Cha Thánh Piô 5 dấu thưa
cùng ngài rằng: "Bởi thế mà Cha là tất cả mọi sự của mọi người" (Tu
dunque, sei tutto de tutti"), ngài liền trả lời rằng:
"Tôi không là tất cả của mọi người. "Mỗi
người trong các con có thể nói rằng: Cha Piô là của tôi"
(No,
sono tutto di ognuno. Ognuno
di voi può dire: “Padre Pio è mio!“). Câu
tiếng Ý trước bệ chân tượng của ngài là như thế.
Bàn thờ này đã từng là nơi cử hành Thánh lễ rất sốt sắng của Cha Thánh
Piô 5 Dấu
Thân
thể của ngài trước đây được trưng bày trong ngôi mộ ở Nhà Thờ Đức Mẹ Ban
Ơn này, nhưng nay đã được dời về Đền Thánh Piô 5 Dấu, không còn ở ngay
chỗ này nữa.
Ngày nay có khoảng 7 triệu khách hành hương hằng năm đến hành hương, Nhà
Thờ Đức Mẹ Ban Ơn không thể nào đáp ứng nhu cầu hành hương của số lượng
người khổng lồ như thế,
mới xuất hiện Nhà Thờ Thánh Piô, nơi có thể chứa được 7 ngàn người ở bên
trong, chưa kể bên ngoài quảng trường dọc theo nhà thờ còn có thể chứa
được thêm cả ngàn người nữa.
Các đau khổ không lúc nào từ bỏ Cha Pio. Vào cuối năm 1966, Cha không
thể đứng để cử hành thanh lễ, bắt buộc phải ngồi trong suốt thánh lễ.
Cha cũng không thể đi từ phòng ở đến Tòa giải tội đặt trong nhà thờ. Ngày
20 tháng 9 năm 1968, kỷ niệm 50 năm lãnh nhận dấu thánh. Trong dịp
này, Ðại hội quốc tế các nhóm cầu nguyện được tổ chức; nhưng Cha Pio
không thể tham dự, vì ngài sắp qua đời. Lúc 2g30 ngày 23 tháng 9 năm
1968, Cha đã tắt thở. Lúc các Bác sĩ và các Tu sĩ mặc áo lễ cho Cha,
các vết thương biến mất hoàn toàn, không để lại dấu vết nào cả.