SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014
2015 - 2018 - 2021
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 55, 6-9
"Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 8-9. 17-18
Ðáp: Chúa ở gần mọi kẻ kêu cầu Người (c. 18a).
Xướng: 1) Hằng ngày tôi sẽ chúc tụng Chúa, và tôi sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi người, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Người, mọi kẻ kêu cầu Người cách thành tâm. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 1, 20c-24. 27a
"Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô"
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi. Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Món hàng lao động được bày bán như bị ế ẩm... nhưng lại là món hàng đắt giá nhất
Con người thường hay bị mắc kẹt giữa công bằng và lòng thương xót. Thậm chí họ cho rằng phải công bằng đã rồi mới thương xót sau. Nên theo họ, nếu bất chấp công bằng thì chẳng bao giờ thật sự thương xót. Thương xót mà không công bằng là nhu nhược và dung túng sự dữ. Và chính vì thế họ thường lấy chính chân lý, công lý và luật lệ là những gì giúp giải phóng và thăng hóa con người để tiêu diệt chính con người, để ném đá những nạn nhân vấp phạm.
Đúng thế, về chính tội lỗi, tự bản chất là sự dữ, thì không một ai được yêu thích và để cho nó lộng hành và gây tác hại đến công ích và từng người trong xã hội. Thế nhưng, về con người tội nhân, họ cần được thương xót, vì là loài tạo vật vô cùng hèn hạ, khốn nạn và tội lỗi như bất cứ con người nào muốn ném đá họ.
Cho dù bản thân chúng ta có chẳng may là nạn nhân của họ, bị họ xúc phạm tới, gây thiệt hại cho chúng ta về luân lý, tâm ý hay thể lý, chúng ta lại càng phải bù đắp lại tội phạm hay sự dữ của họ gây ra bằng sự lành nữa. Ở chỗ, chẳng những đừng tát lại họ theo luật công bằng mắt đền mắt răng đền răng, trái lại còn chìa cả má kia cho họ tát nữa (xem Luca 6:29) theo đường lối lấy sự lành át sự dữ như ánh sáng xua tan tăm tối.
Đó là đường lối của Thiên Chúa, là tinh thần Phúc Âm, là những gì liên quan đến phúc đức trọn lành được Con Thiên Chúa làm người dạy cho chung con người và riêng Kitô hữu là thành phần môn đệ của Người ở Bài Giảng Trên Núi (Xem Mathêu đoạn 5 và Luca đoạn 6). Nhưng lại là những gì vượt lên trên bản tính yếu hèn, phản lại với bản năng tự vệ và bất khả với khuynh hướng công bằng trả thù rửa hận của con người.
Bởi thế mà chẳng lạ gì, qua miệng Tiên Tri Isaia, ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã phải công nhận rằng:
"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cũng vượt trên đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi thế ấy".
Quả vậy, chính vị đại tông đồ Phaolô mà có lúc còn cảm thấy bối rối, không biết phải chọn lựa thế nào cho đẹp ý Chúa nhất, khôn ngoan nhất và có lợi nhất có cả bản thân mình lẫn tha nhân. Trong Thư gừi Giáo Đoàn Philiphê ở Bài Đọc 2 hôm nay, ngài đã tự thú thế này:
"Nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em".
Nếu phải chọn giữa xấu và tốt thì còn dễ phân biệt, hay chọn giữa công bằng và bất công cũng không khó cho lắm, còn chọn giữa hai sự lành thì hơi khó chọn sự trọn lành hơn, như trường hợp của Thánh Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay. Còn trường hợp ở dụ ngôn được Chúa Giêsu nói đến trong Bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến việc trả lương cho nhân viên được thuê mướn sớm muộn làm vườn nho cho chủ vườn nho thì sao?
Dường như sự kiện hay đường lối trả lương hơi khác thường, nếu không muốn nói là kỳ cục của chủ vườn nho này xẩy ra ở giữa vùng tranh tối tranh sáng. Cả hai bên chủ tớ đều có lý của mình về vấn đề số lương ấy. Ở chỗ, nhân viên căn cứ vào công bằng, còn chủ nhân nại vào quyền ban phát của mình.
"Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao'? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: 'Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?' Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
Thế nhưng, nếu vẫn cứ xét theo lý, cuối cùng phần thắng đã về chủ và nhân viên đành phải biết thân biết phận mình trước việc làm vừa công minh của chủ, ở chỗ ông chủ đã mặc cả đàng hoàng với kẻ làm thuê và họ cũng đã hoàn toàn đồng ý với vị chủ, họ mới đi làm cho chủ; nhưng đồng thời ông chủ chẳng những công bằng mà còn nhân lành nữa, ở chỗ ông đã sử dụng quyền sở hữu của mình để rộng lượng ban phát cho những ai ông thấy xứng đáng, không chỉ căn cứ vào ở việc làm mà còn vào chính lòng của con người làm việc cho ông nữa.
Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay quả thực đã nhìn thấu tận thâm tâm của những con người đến làm vườn nho vào giờ cuối cùng, chỉ có một giờ duy nhất và đã trả lương cho họ cũng một đồng, như ba nhóm thợ đến trước những nhân viên đã làm nhiều hơn họ trong ngày.
Họ chẳng những xứng đáng được số lương đồng đều với các người thợ đến trước họ mà họ còn xứng đáng được hơn như vậy nữa, đến độ có thể nói, được chính tấm lòng vô cùng quảng đại của chủ.
Không phải hay sao, thành phần thợ được gọi đến làm vườn nho cuối cùng trong ngày và ngắn nhất này: 1- Trước hết, họ không lười, vì cũng đã ra đứng đợi để được thuê ngay từ đầu ngày như thành phần thợ được thuê đầu tiên: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?"; 2- Sau nữa, họ đã tỏ ra nhẫn nại đợi chờ để được thuê mướn đi làm, chứ không chán nản bỏ về, cho dù món hàng lao động của họ được bày bán như bị ế ẩm "Vì không có ai thuê chúng tôi"; 3- Chưa hết, họ phải chịu đựng cái nhìn khinh bỉ của khách qua đường, cho họ là bất tài bất lực, vô dụng, chẳng ai thèm thuê, đồ bỏ "Vì không có ai thuê chúng tôi"; 4- Sau hết, khi được may mắn thuê mướn, họ không hề mặc cả gì, không đòi hỏi, đi làm liền, làm gì cũng được, hoàn toàn cho chủ, để chủ toàn quyền sai khiến chỉ bảo "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Chính vì thành phần thợ làm vườn nho vào giờ cuối cùng và ngắn ngủi này quả thực đã biết thân phận tôi tớ của mình trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 1:38) và trước Lòng Thương Xót Chúa (xem Luca 1:48), mà họ mới có thể vang lên tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Chúa ở gần mọi kẻ kêu cầu Người".
1) Hằng ngày tôi sẽ chúc tụng Chúa, và tôi sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi người, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Người, mọi kẻ kêu cầu Người cách thành tâm.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 1, 1-6
"Ai thuộc dân Chúa, hãy lên Giêrusalem và xây cất nhà Chúa".
Khởi đầu sách Esdra.
Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia, Chúa giục lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem.
Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa, Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người được Chúa thúc giục trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem. Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng cúng.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng; lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 16-18
"Ðặt đèn trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXV Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần trước, Tuần XXIV Thường Niên.
Thật vậy, ngay sau khi nói với đám đông dân chúng tuốn đến nghe Người và Người đã giảng dạy họ bằng dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay, liền giảng tiếp vỏn vẻn trong 3 câu Phúc Âm như là những gì liên hệ với nhau bất khả phân ly trong cùng một bài giảng của Người, đó là:
"Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường,
nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng. Vì
chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che
giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng. Vậy hãy
để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn
ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."
Đúng thế, dụ ngôn người gieo giống trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước liên quan đến 4 loại thính giả, và 3 câu Phúc Âm hôm nay có liên hệ hết sức mật thiết với nhau ở chỗ: "Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe". Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại ghép cách thức nghe lời Chúa với việc thắp đèn lên cho sáng tỏ chứ?
Phải chăng ở đây Chúa Giêsu có ý nói rằng Chúa là người gieo giống, là Đấng rao giảng hạt giống lời Chúa, chẳng còn muốn gì hơn là làm sao cho lời của Người sinh hoa kết trái nơi con người, nơi những người nghe lời của Người, mà "lời Chúa là đèn soi chân con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi" (Thánh Vịnh 119:105), thì cũng có nghĩa là Người muốn thắp lên trong mỗi một con người ngọn đèn lời của Người, nếu họ biết lắng nghe và đáp ứng lời của Người, nhờ đó, lời của Người cho dù đầy sâu nhiệm "bí ẩn" cũng sẽ "trở nên hiển hiện", dù lời của Người như có vẻ "che giấu" trong tâm hồn của mỗi một người nghe lời của Người, cũng sẽ trở nên cụ thể trước mặt mọi người qua đời sống chứng nhân của họ, như "được đưa ra ánh sáng" vậy.
Nếu biết lắng nghe, chấp nhận và đáp ứng lời của Chúa, như một mảnh đất tốt, thì mảnh đất nhân tính tốt của con người lắng nghe ấy sẽ trổ sinh hoa trái, như thể "ai đã có (lời Chúa), thì được cho thêm (hoa trái)", Trái lại, thành phần nghe lời Chúa như một vệ đường hay như sỏi đá hoặc như bụi gai, thì lời Chúa Giêsu kết luận ở cuối bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định: "còn ai không có (ám chỉ lời Chúa chẳng công hiệu gì nơi họ như thể họ chẳng có lời Chúa, chẳng hề nghe lời Chúa), thì ngay cái họ tưởng là có (như đức tin họ lãnh nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, như việc lành phúc đức họ làm là những gì họ tưởng là có), cũng sẽ bị lấy mất (như người đầy tớ được trao cho một nén chẳng sinh lợi nên bị tước luôn - xem Mathêu 25:28-29)".
Đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "chẳng
có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không
bị lộ ra cho người ta biết". Bài Đọc 1 hôm nay,
được trích từ Sách Esdra đã chứng thực điều đó. Ở chỗ, những gì
Thiên Chúa đã ấn định một cách "kín nhiệm" thì
Ngài đã "tỏ ra" cho chính vị vua dân ngoại, như được thuật
lại như sau:
"Năm thứ nhất triều đại Kyrô vua nước Ba-tư, để ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi miệng Giêrêmia, Chúa giục lòng Kyrô vua nước Ba-tư, và ông truyền công bố bằng lời rao và sắc chỉ trong khắp nước rằng: "Ðây là lệnh của Kyrô vua nước Ba-tư: Chúa là Chúa Trời đã ban cho ta mọi nước trên mặt đất, chính Người truyền dạy ta phải xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong nước Giuđêa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Người? Xin Thiên Chúa của nó ở cùng nó. Nó hãy lên Giêrusalem trong xứ Giuđêa, và xây cất nhà của Chúa là Thiên Chúa Israel, chính Người là Thiên Chúa ngự ở Giêrusalem. Và tất cả những người khác đang cư ngụ bất kỳ nơi nào, thì từ nơi mình ở, hãy giúp họ bằng vàng bạc, của cải và súc vật, đừng kể những gì tình nguyện dâng cho đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem".
Chưa hết, những gì Thiên Chúa "ẩn dấu" thì Ngài cũng đã "lộ ra" cho dân của Ngài biết khi tới thời điểm ấn định của Ngài, như được cùng Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: "Các trưởng tộc thuộc chi họ Giuđa, Bêngiamin, các tư tế, các thầy Lêvi và mọi người được Chúa thúc giục trong lòng, đều vùng dậy tiến lên, để xây cất đền thờ Chúa ở Giêrusalem. Toàn thể dân chúng sống trong vùng lân cận cũng tiếp tay giúp họ vàng bạc, của cải, súc vật, những đồ quý, không kể những gì họ tự ý dâng cúng".
Đó là lý do, khi Thiên Chúa ẩn mặt đi, vì tội lỗi của dân Ngài, hay vì Ngài muốn thử thách dân Ngài, thì Ngài cũng chỉ làm vì lợi ích thiêng liêng cho chính họ mà thôi, để rồi, nhờ đó, khi họ nhận ra tội lỗi mình và nhận biết Thiên Chúa của họ, khi Ngài tỏ mình ra cho họ, bằng cách cứu độ họ cho khỏi cảnh vừa cùng cực vừa bất lực của họ, họ sẽ càng cảm thấy hân hoan vui sướng hơn bao giờ hết, như Thánh Vịnh 125 ở bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ; bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 6, 7-8. 12b. 14-20
"Họ hoàn tất việc xây cất nhà Chúa và mừng lễ Vượt Qua".
Bài tích sách Esdra.
Trong những ngày ấy, (Vua Ðariô viết thư cho các vị tư lệnh vùng ở bên kia sông Euphrate mà nói rằng:) "Hãy để cho vị thủ lãnh người Do-thái và các kỳ lão của họ xây cất đền thờ của Thiên Chúa, để đền thờ của Thiên Chúa được xây cất chính nơi cũ. Ta cũng ra lệnh về việc các ngươi phải làm với các bậc Kỳ cựu Do-thái, để tái thiết nhà Thiên Chúa: là phải lấy của trong kho nhà vua, nghĩa là tiền nộp thuế của miền bên kia sông Euphrate, và cẩn thận phân phát cho những người ấy, để công việc không bị trì hoãn. Ta là Ðariô ra sắc chỉ này, ta muốn mọi người ân cần tuân giữ".
Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar, năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi, và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa. Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê.
Những con cái Israel lưu đày về mừng lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 8, 19-21
"Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông, nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: "Có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy". Người trả lời với họ rằng: "Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cũng rất ngắn ngủi, chỉ có 3 câu, tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua về chiều hướng lời Chúa nơi con người thắp sáng trần gian, và có liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua về ý nghĩa của nó, về mối liên hệ đích thực giữa Người với những ai giữ lời Chúa, đó là bài Phúc Âm trong đó Chúa Kitô khẳng định về mối liên hệ thiêng liêng với Người:
"Khi ấy, mẹ và anh em Chúa Giêsu đến tìm Người, nhưng vì đám đông,
nên không thể đến gần Người được. Người ta báo tin cho Người rằng: 'Có
mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn gặp Thầy'. Người trả lời với họ
rằng: 'Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành'".
Đúng thế, qua câu khẳng định về tình nghĩa thiêng liêng với Người này, Chúa Giêsu chẳng những không phủ nhận mối liên hệ tự nhiên về huyết nhục, nhất là đối với Người Mẹ của Người, mà còn đề cao Mẹ của Người hơn nữa, như muốn nhấn mạnh rằng Mẹ Maria của Người chẳng những có phúc vì đã được thụ thai và cưu mang Người (xem Luca 11:27) là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là "Con Thiên Chúa", là "Con Đấng Tối Cao" (Luca 1:32,35), mà còn "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45), tin phục những gì đã truyền đạt cho Mẹ.
Chính "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) của Mẹ mới làm và đã làm cho Mẹ nên một với Con của Mẹ, mới làm cho Mẹ xứng đáng đồng công cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Con Mẹ và với Con Mẹ, nhất là khi Mẹ đứng kề bên Thánh Giá của Người (xem Gioan 19:25). Mẹ là đệ nhất môn đệ của Con Mẹ, là môn đệ tuyệt hảo nhất của Con Mẹ đúng như Con Mẹ mong muốn, ở chỗ Mẹ là "người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành".
Mẹ không thể nào có thể "đem ra thực hành" lời Chúa nếu không "nghe lời Thiên Chúa", như khi Mẹ nghe thấy câu trả lời của Thiếu Nhi Giêsu Con Mẹ 12 tuổi trong đền thờ sau 3 ngày lạc mất, một lời mà Mẹ không nắm bắt được ý nghĩa của nó (xem Luca 2:50), nhưng Mẹ vẫn lấy "đức tin tuân phục" để "xin vâng" như trong Biến Cố Truyền Tin (xem Luca 1:38), hay như khi Mẹ chứng kiến thấy những dấu lạ Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn lưu giữ tất cả những sự ấy mà suy niệm trong lòng, chẳng hạn như sự kiện ba chiêm tinh vương gia đông phương đến bái thờ Hài Nhi Giêsu Con Mẹ (xem Luca 1:19).
Bởi thế, Mẹ thật sự là Mẹ của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể cả về phương diện thể lý lẫn phương diện thiêng liêng. Nếu về phương diện tự nhiên, Mẹ đã hạ sinh nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thuộc giòng dõi Đavít, thì về phương diện siêu nhiên, nhờ đức tin tuân phục của Mẹ, Mẹ đã thụ thai Lời Nhập Thể và Lời Nhập Thể đã chiếm đoạt Mẹ, biến Mẹ thành phương tiện thông ban ơn cứu độ, một ơn cứu độ trước tiên được thông ban cho thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua lời chào đầy Thánh Linh của Mẹ (xem Luca 1:41-44), và sau đó, cũng nhờ lời chuyển cầu thần thế của Mẹ, bằng vai trò trung gian môi giới, Chúa Giêsu lần đầu tiên đã tỏ mình ra cho các môn đệ của Người ở tiệc cưới Cana làm cho các vị tin vào Người (xem Gioan 2:1-11).
Chính nhờ tâm hồn đầy "đức tin tuân phục" của Mẹ mà chẳng những tâm hồn đầy ân phúc của Mẹ thực sự là Đền Thờ cho Chúa Thánh Thần ngự trị, mà nhờ đó cả thân xác trọn đời trinh nguyên của Mẹ nữa cũng đã hoàn toàn trở thành Đền Thờ vô cùng xứng đáng cho Lời Nhập Thể ẩn ngự trong suốt 9 tháng mở đầu cho cuộc sống trần gian của Người.
Đúng thế, chỉ có những tâm hồn nào, như Mẹ Maria, trở thành Đền Thờ của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa ngự, mới thật sự là thân nhân ruột thịt thiêng liêng của Chúa Giêsu và với Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Làm Người - Emmanuel. Dân Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn làm sản nghiệp của Ngài giữa muôn dân trên thế gian này cũng thế, họ chỉ xứng đáng với Ngài khi họ trở thành nơi cho Thiên Chúa ngự giữa họ, như Đền Thờ Giêrusalem ở trong Thành Giêrusalem vậy.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Esdra, đã cho chúng ta thấy dân Do Thái, sau thời gian lưu đầy bởi tội lỗi của mình cho tới thời kỳ ấn định thì được hồi hương đúng như thời hạn Thiên Chúa đã báo trước qua tiên tri Giêrêmia (như Bài Đọc 1 hôm qua đã nhắc đến ngay ở đầu bài), và nhờ được cứu độ như thế, dân Chúa càng nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình hơn và cố gắng sống xứng đáng với Ngài hơn, ở chỗ đã tái thiết Đền Thờ của Ngài và cho Ngài, như một dấu hiệu chứng thực lòng họ trở về với Ngài và gắn bó với Ngài, một việc tái thiết đền thờ đã được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại như sau:
"Các kỳ lão người Do-thái xây cất đền thờ và công việc tiến hành nhanh chóng, nhờ lời sấm của tiên tri Khác-gai và tiên tri Dacaria, con ông Ađđô: họ xây cất và hoàn thành theo lệnh Chúa Israel truyền dạy, và theo lệnh các vua nước Ba-tư là Kyrô, Ðariô và Artaxerxê. Họ hoàn tất việc xây cất nhà Thiên Chúa ngày mồng ba tháng Ađar, năm thứ sáu triều vua Ðariô. Vậy con cháu Israel, các tư tế, các thầy Lêvi, và những người lưu đày còn sống sót, đều vui mừng hiến thánh nhà Thiên Chúa. Trong lễ cung hiến nhà Thiên Chúa, họ dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu, bốn trăm con chiên, và để làm lễ đền tội cho cả dân Israel, họ cũng dâng mười hai con dê theo số các chi tộc Israel. Rồi họ cắt đặt các thầy tư tế theo phẩm trật và các thầy Lêvi theo cấp bậc, để giúp việc đền thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, như đã chép trong sách của Môsê. Những con cái Israel lưu đày về mừng lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. Các thầy tư tế và Lêvi, tất cả như một, đều được thanh tẩy, tất cả đều trong sạch, để sát tế mừng lễ Vượt Qua cho toàn thể dân lưu đày và cho anh em tư tế của họ và chính mình họ".
Đối với dân Do Thái thì Đền Thờ là tâm điểm của Do Thái giáo và là biểu hiệu cho đức tin của họ vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, giống như Tòa Thánh Rôma là trung tâm điểm của Kitô giáo và là vị trí có di tích lịch sử về đức tin Kitô giáo, hay Mecca đối với Hồi giáo cũng vậy. Và đó là lý do tín đồ Do Thái giáo luôn hướng về Đền Thờ Giêrusalem với tất cả niềm tin tưởng và hân hoan của mình, đúng như Thánh Vịnh 121 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc của Chúa tiến lên.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavit.
Ngày 26-09
Thánh COSMA và Thánh ĐAMIANÔ
tử đạo
Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh đôi. Sinh tại Ả rập. Các Ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các Ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Syria. Tại đây Cosma và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng. Vì thế, người ta đã đặt cho hai ngài một danh xưng bằng tiếng Hy Lạp là “những người nghèo khó.” Với cách thức đó, các ngài đã hoán cải được nhiều người trở thành tín hữu Công giáo.
Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn. Mỗi khi có dịp, cả hai vị thánh đều kể cho các bệnh nhân của mình nghe biết về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và vì yêu mến cặp bác sĩ song sinh này, họ đã rất sẵn lòng lắng nghe hai ngài. Cosma và Đamianô thường mang lại sức khỏe cả phần xác lẫn phần hồn cho những người đến xin các ngài giúp đỡ.
Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các Ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài. Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các Ngài.
Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai Ngài. Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.
Chứng kiến phép lạ tỏ tường ấy, thêm nhiều người được ơn trở lại. Sau khi Cosma và Đamianô qua đời, có nhiều chứng bệnh được chữa lành qua lời chuyển cầu của các ngài. Đôi khi hai vị còn hiện ra trong giấc mơ để mách bảo cho bệnh nhân phương pháp chữa bệnh. Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm. Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã hành hạ mình. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác và nhận phúc tử vì đạo. Hôm ấy là ngày 26-09-297.
Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện. Hoàng đế Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài chịu chết vì đạo. Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498 - 514) đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix IV (526 - 530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài. Tại Brazil, Cosma và Đamianô được coi là người bảo vệ trẻ em, vào ngày lễ kính, tín hữu Brazil tặng các trẻ em những túi kẹo có in hình các ngài. Cùng với thánh Luca, hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ websites của TGP Sài Gòn, Dòng Tên và CGVDT
Dẫn Nhập
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh)
Đọc hay nghe truyện 2 Thánh Cosma và Đamianô hôm nay, chúng ta thấy được rằng bất cứ dân nước nào trên thế giới trên thế giới đều có thể nên thánh, đều có người tốt, dù chủng tộc của họ có thế nào chăng nữa. Theo lịch sử của Giáo Hội, thì Phi Châu, một châu lục vốn bị coi là chậm tiến nhất thế giới, thua cả Á Châu, thế mà ngay từ đầu đã có những vị thánh đặc biệt và nổi tiếng, như Thánh Giám Mục Cypriano thế kỷ thứ 3, hay Thánh Âu Quốc Tinh, Thánh Monica thế kỷ thứ 5 v.v.
Kể từ sau khi Kitô giáo được chính Con Thiên Chúa xuống thế làm người thành lập, tức là kể từ sau khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, "ánh sáng chân thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:12), thì kể như không còn một đạo giáo nào khác trên thế giới có vẻ mê tín dị đoan và đa thần xuất hiện nữa, như trước thời Kitô giáo này. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 7, một tôn giáo hoàn toàn mới mẻ đã xuất hiện, mang tính cách pha trộn giữa Do Thái giáo và Kitô giáo, cũng tôn thờ một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như Do Thái giáo và Kitô giáo, tuy nhiên, lại qua một vị trung gian khác, đó là vị đại tiên tri Mohammed của họ, hơn là Moisen của Do Thái giáo, hay Đức Giêsu Kitô của Kitô giáo.
Thứ đạo mới này được gọi là Hồi giáo (Islam), và tín đồ của tôn giáo này được gọi là Muslim, có nghĩa là thành phần thuận phục Thiên Chúa. Vị giáo tổ Mohammed của họ được cho là đã đọc toàn bộ Thánh Kinh Kitô giáo, (kỹ đến đâu thì không biết), nên đã biết lịch sử dân Do Thái trong Cựu Ước, và cả Chúa Giêsu lẫn Đức Maria cùng Tổng Thần Gabriel trong Tân Ước; nhưng ông chỉ công nhận tổ phụ Abraham, vì có liên quan đến cả dân Do Thái (từ Isaac là con thứ của vị tổ phụ) lẫn Ả Rập (liên quan đến người con Ismael được sinh ra theo xác thịt từ nữ đầy tớ Ai Cập, tỳ nữ của Sara, vợ của tổ phụ Abraham). Còn Chúa Giêsu cũng chỉ là vị tiên tri ngang hàng với ông, thậm chí còn thua ông.
Ông đã viết Kinh Koran, được tín đồ coi như "thánh kinh" của họ, vị vị đại tiên tri giáo tổ của họ được Thần Gabiên mạc khải cho, trong đó, ông chủ trương tất cả những gì hợp với Cựu Ước hơn là Tân Ước, chẳng hạn, 2 điều điển hình nhất là chủ trương đa thê của Cựu Ước, hơn là đơn thê của Tân Ước, và chủ trương tính cách có vẻ bạo lực của Cựu Ước, vì ông thấy Vị Thiên Chúa của Cựu Ước rất công thẳng, động một tí là trừng phạt nghiêm minh, hơn là lòng nhân từ của Cha Trên Trời là Đấng Xót Thương (xem Luca 6:36) nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước v.v. Từ đầu thế kỷ 21, thế giới đã liên tục xẩy ra các cuộc khủng bố tự sát gây ra bởi những con người hay những nhóm khủng bố quốc tế, nổi tiếng nhất là Al-Queda, một tổ chức đã công khai tấn công khủng bố Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001, và từ năm 2014, một nhóm khủng bố khác xuất hiện ở Iraq, được gọi là ISIS, còn kinh khủng dữ tợn hơn nữa, đã gây ra biết bao chết chóc và kinh hoàng trên khắp thế giới, nhất là thế giới Tây Phương, với các cuộc khủng bố đã xẩy ra ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha v.v., và ngay cả trong vùng thế giới riêng của họ, bao gồm cả Iraq và Syria, đến độ họ đã làm cho dân chúng phải thoát thân, tràn sang Âu Châu qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ, khiến Âu Châu vẫn còn chới với tới bây giờ....
Hôm nay, nhân lễ hai vị thánh người Ả Rập, chúng ta cũng nên đọc thêm về một người Ả Rập khác, một người Ả Rập Hồi giáo nhưng rất thành tâm và rất can đảm, dám lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở chính đồng đạo Hồi giáo của mình, về chính đạo giáo của mình, một thứ đạo, như chúng ta thấy, ngay từ ban đầu, ngay từ thời vị giáo tổ của họ, đã chủ trương canh tân xã hội bằng vũ lực, bằng các cuộc thánh chiến, thậm chí bằng cả các cuộc tấn công khủng bố, bất chấp là ai, kể cả chính đồng đạo của họ, và tôn giáo hóa chính trị, bắt mọi người không phải Hồi giáo, đều bị họ cho là bọn bất trung infidels, nghĩa là không thuận phục Thiên Chúa như họ, thành phần mang danh Muslim với ý nghĩa như thế, phải cải đạo trở về thuận phục vị Thiên Chúa Allah Vĩ Đại chân thực duy nhất của Hồi giáo, qua Mohammed là vị đại tiên tri trung gian đích thực duy nhất của Ngài. Tạ ơn Chúa còn cho thế giới thấy có những tia sáng phát ra từ một thứ thế giới đã từng liên tục ôm mộng thống chiếm Âu Châu, và đã liên tục bách hại cùng sát hại Kitô giáo chưa từng thấy như hiện nay.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Esd 9, 5-9
"Thiên Chúa không bỏ rơi chúng tôi trong cảnh nô lệ".
Trích sách Esdra.
Tôi là Esdra, khi dâng lễ tế ban chiều, tôi vùng dậy khỏi cơn âu sầu, áo trong áo ngoài đều rách hết, tôi quỳ gối xuống, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa tôi mà thưa rằng: "Lạy Chúa, con hổ ngươi thẹn thuồng không dám ngước mặt lên cùng Chúa: vì những sự gian ác của chúng con chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi chúng con cao lên tới trời. Kể từ thời cha ông chúng con cho tới ngày nay, tội lỗi chúng con đã quá nhiều, và vì sự gian ác của chúng con, nên chúng con, vua chúa, tư tế của chúng con, bị trao vào tay vua các dân ngoại, bị gươm đao, bị lưu đày, bị cướp bóc và bị thẹn mặt như ngày nay.
"Và hiện giờ đây, Chúa vừa tạm ban cho chúng con một chút lòng thương xót, là để cho chúng con sống sót phần nào, và cho chúng con một nơi ẩn náu trong chốn thánh của Chúa, để soi sáng mắt chúng con, và ban cho chúng con một chút sự sống trong cảnh nô lệ của chúng con, vì chúng con là nô lệ mà Thiên Chúa không bỏ rơi chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Chúa đã khiến các vua Ba-tư thương xót chúng con, mà cho chúng con còn sống để chúng con xây cất nhà Thiên Chúa chúng con, tu bổ những nơi hoang tàn, và cho chúng con một chỗ ở trong xứ Giuđêa và tại Gierusalem".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tb 13, 2. 3-4. 6. 7. 8.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa cao cả muôn đời (c. 1b).
Xướng: 1) Chúa trừng phạt, rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa. - Ðáp.
2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác. - Ðáp.
3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.
4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.
5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 1-6
"Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật. Ðoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ". Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
1) Chúa trừng phạt, rồi lại tha thứ. Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.
2) Bởi vì thế, Chúa đã phân tán các ngươi giữa các dân tộc không nhìn biết Chúa, để các ngươi tường thuật các việc kỳ diệu của Người, để các ngươi làm cho họ biết rằng ngoài Người ra, không có Thiên Chúa toàn năng nào khác.
3) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi.
4) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội.
5) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.
27/9
THÁNH VINH-SƠN PHAOLÔ
(1581-1660)
1. Đôi dòng tiểu sử
Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vinhsơn sinh năm
1581 ngày 24 tháng 4, là con thứ ba trong gia đình 6 người con. Trong
những ngày còn thơ ấu, ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió
này, Vinhsơn đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng
quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho ngài những kinh
nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nảy
nở trong tâm hồn Vinhsơn. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối
với ngài, nhưng ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác
trên đường tới nhà máy xay, ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người
nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan Phaolô quyết hy
sinh cho Vinhsơn theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vinhsơn theo học các cha dòng
Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vinhsơn,
cha ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học
thần học tại Toulouse, Vinhsơn cũng vừa lo học vừa lo dạy kèm tư gia
kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục vào năm 20 tuổi, trong 2 năm, Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vinhsơn ra sao. Người ta kể lại rằng có một goá phụ tại Toulouse đã tặng cho ngài tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne vào tháng 7 năm 1605 để nhận gia tài, ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quen nghề, ngài lại bị bán cho một người Hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng, ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện ngài đã cải hoá được ông. Chính ông đã đưa ngài trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo ngài đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, Cha Vinhsơn bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của ngài, phục vụ cho một xứ đạo gần Paris. Cha nhiệt thành với các linh hồn và được nhiều người tín nhiệm. Nhìn cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt cha Vincent để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi. Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.
Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, Cha Vinhsơn có dịp quen biết Cha Phêrô Berulle, đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của Cha Phêrô Bérulle, Cha Vinhsơn bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, Cha Vinhsơn nhận làm tuyên uý cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Cha Vinhsơn đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.
Cha Vinhsơn đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris ngài được sự trợ giúp của nữ Bá Tước de Gondi, (có người đầy tớ được cha Vincent giúp đỡ), đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Ngay lúc đầu cha Vincent thừa khiêm tốn để nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này.
Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, ngài tổ chức “hội bác ái” trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh Sơn (the Congregation thành Priests thành the Mission – Lazarists). Các linh mục này, với các lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vinhsơn.
Sau này cha Vincent tổ chức các nhóm bác ái để chữa trị tinh thần cũng như thể xác của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của thánh nữ Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái (the Congregation thành the Daughters thành Charity) “mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Paris để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, cha Vincent là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ “rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane, ảnh hưởng của ngài lan rộng ra khắp nước Pháp, tới Ba Lan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này, lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại
Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với
các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam ngài tại
phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thư cho các giám
mục lẫn linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ
trong nước. Các thư tín của ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê
người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái
ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vinhsơn cho thấy ngài là một
trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh
tâm ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm
hằng tháng ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt
lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của
ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, Cha Vinhsơn ngã bệnh liệt giường và dù đau đớn vì bệnh tật,
ngài vẫn vui tươi tin tưởng: Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội. Đối
diện với cái chết, ngài bình tĩnh: 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình
chết. Cha
Vincent qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris, nước Pháp,
thọ 80 tuổi. Vào
năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành
hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Đức
Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong Chân Phước cho cha Vincent đệ
Phaolô ngày 13 tháng 8 năm 1729. Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Clement XII
đã nâng cha Vincent đệ Phaolô – vị tông đồ của lòng bác ái lên hàng hiển
thánh ngày 16 tháng 6 năm 1737. Ðức Giáo Hoàng Leo XIII ngày 12 tháng 5
năm 1885 đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất
trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh Sơn, được thành lập
năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ thánh Vinh
Sơn.
Sau nhiều cuộc di dời, hài cốt thánh nhân được đặt trong một bức tượng bằng sáp để trong một chiếc hòm xinh đẹp tại nguyện đường nhà mẹ dòng thánh Vinh Sơn đường Rue de Sèvres, thành phố Paris. Phần đầu của pho tượng giống hệt như đầu thánh nhân.
Tuy nhiên trái tim còn toàn vẹn của ngài được đặt trong một chiếc hòm bằng vàng được bày kính trên bàn thờ đài vị kính ngài trong nguyện đường trụ sở nhà mẹ của dòng Nữ Tử Bác Ái tại số 140 đường Rue du Bac, Paris. Cách xa thánh tích thánh Vinh Sơn một chút, bên dưới bàn thờ cạnh là thi hài nguyên vẹn của người con thiêng liêng của ngài là thánh nữ Catherine Labouré, người được Đức Mẹ hiện ra và ban cho chiếc ảnh Đức Mẹ Hay Làm Phép Lạ. Cũng trong nguyện đường này, trên bàn thờ cạnh còn có một chiếc hòm kính có tượng sáp trong có xương của thánh nữ Louise de Marillac, vị đồng sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái.
Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ – đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinhsơn Phaolô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
“Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Ngài thấy bạn không tôn kính Ngài đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Ngài, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát” (Thánh Vinhsơn Phaolô, Thư Từ).
Xác thánh Vincent ở đằng sau bàn thờ tại Nhà Nguyện Nhà Mẹ Dòng Nữ Tử Bác Ái,
gần ngay đó là xác còn nguyên của nữ tu dòng này là Thánh Catarina Labuaré
(hai tấm hình trên do TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, đã chụp dịp Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017, ghé kính viếng địa điểm Mẹ Ban Ơn hiện ra năm 1830 vào ngày 21/5/2017)
2. Những nét nổi bật trong đời sống
+ Đầu tiên là
việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi
còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay
thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, thánh Vinh Sơn Phaolô đã
luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của
Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề
trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một
mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức
khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những
kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu
nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được
Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường
hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: cho kẻ đói ăn,
cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy
v.v...(x. Mt chương 25).
Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu
thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng
sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời. Trên
thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên
nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương
người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không
cửa. Theo gương Chúa, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn cứu giúp người
nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi
Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống
như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.
+ Thứ đến là
lo cho họ, những người nghèo khó có các mục tử coi sóc họ. Chính vì thế
mà năm 1625, ngài đã sáng lập ra Tu hội “Linh
mục thừa sai” để
giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ
những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy,
công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn
lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của
ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở
thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo
trong Chúa Kitô.
Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện
thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo: “…
Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức
Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh
cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp
những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo,
nên đã chia sẻ thân phận của họ…”
Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân,
không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất
phát từ chính con tim biết hiểu
hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao
cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phaolô tông đồ, khi Người
nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”
Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô
còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết
nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được
trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì
hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).
Chúng ta cùng nhau đọc lại giáo huấn về thực thi bác ái của
ngài sau đây được trích từ bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các
Nữ tử Bác ái, và được Giáo Hội chọn đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách.
PHẢI ƯU TIÊN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO
Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ.
Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói: Tôi trở nên tất cả cho mọi người. Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy tràn.
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa không bị lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác tương đương.
Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tài liệu của Dòng tên, TGP Sài Gòn, Theo Vết Chân Người / Chân Dung Các Thánh Nhân và Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 27/9
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 1, 1-8
"Các ngươi hãy xây cất đền thờ và như thế sẽ đẹp lòng Ta".
Khởi đầu sách Tiên tri Khác-gai.
Ngày mồng một tháng sáu năm thứ hai triều đại vua Ðariô, có lời Chúa sai tiên tri Khác-gai đến nói với Giorôbabel, con trai ông Giosêđec, thầy cả thượng phẩm những lời sau đây: "Ðây Chúa các đạo binh phán: Dân này nói: "Chưa đến lúc xây cất đền thờ Chúa". Và có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai phán rằng: "Chớ thì đến lúc các ngươi cư ngụ trong nhà ấm cúng, và để đền thờ này hoang vu sao?" Giờ đây Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi. Các ngươi đã gieo nhiều mà thu vào ít: các ngươi đã ăn không no, đã uống không say, đã mặc không ấm, kẻ nhận tiền công lại bỏ vào túi lủng". Chúa các đạo binh phán như thế này: "Các ngươi hãy lưu tâm đến đường lối các ngươi: Hãy lên núi mang gỗ về xây cất đền thờ, như thế sẽ đẹp lòng Ta và Ta sẽ được tôn vinh". Chúa phán như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 7-9
"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con, bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Ngày 28/09
Thánh Venceslao
Thánh
Venceslao cai trị Bôhêmia vào thời mà miền này mới chỉ có một
phần theo Kitô giáo. Cha Ngài, ông Vratilar, là người khôn ngoan
dũng cảm lương thiện, một Kitô hữu nhân đức nhưng bà Drahomira
mẹ Ngài lại ngả theo lương dân. Em Ngài là Boleslao. Ludmila, bà
nội của hai con trẻ, thấy rõ sự nguy hiểm cho cháu nên đã lo
giáo dục Venceslao. Còn thánh Venceslao, con người có nhiều đức
tính đáng phục đã đáp ứng hoàn toàn sự lo lắng của bà nội. Từ đó
Ngài đã có lòng mộ mến các nhân đức, siêng năng tìm hiểu lẽ đạo
để sống thành một Kitô hữu chân chính.
Chẳng may ông
Vratilar từ trần trong một trận chiến. Bà Drahomira lên nắm
quyền nhiếp chính. Bà độc ác và gian xảo, bà đã sát hại các Kitô
hữu, triệt hạ các nhà thờ, cấm hành đạo công khai và dạy giáo lý
cho trẻ em. Các Kitô hữu có chức phận bị cách chức, nhường chỗ
cho lương dân.
Đau lòng vì sự
dữ lan tràn, bà Ludmila thuyết phục Venceslao lên nắm quyền.
Nhưng để tránh cuộc tranh chấp tương tàn, người ta chia đôi lãnh
thổ, một phần trao cho Boleslaô. Lên cai trị với sự tán đồng của
dân chúng, thánh Venceslaô chỉ mong cho thần dân được hạnh phúc.
Ngài cai trị bằng lòng nhân từ hơn là bằng sức mạnh. Ngài lo trợ
giúp mọi cô nhi quả phụ, mọi người nghèo khổ. Thỉnh thoảng trong
đêm tối, Ngài vác củi đến cho người bất hạnh, Ngài phóng thích
các tù nhân và tìm đến an ủi họ. Nếu phải kết án, chính Ngài đã
khóc thương. Ngài luôn kính phục các Linh mục, tự trồng nho ép
rượu và giúp lễ. Đêm đêm, Ngài đi chân không đến viếng các nhà
thờ. Trong một cuộc hành hương như vậy, người hầu cận cho biết
chân mình đã tê cóng không thể đi thêm được nữa. Thánh nhân dặn,
hãy đạp lên vết chân Ngài. Anh ta đã vâng theo và cảm thấy ấm áp
toàn thân.
Drahomira tức
giận vì sự êm ấm trong miền Bôhêmia theo Kitô giáo. Bà quyết sát
hại Ludmila, người đàn bà nhân đức làm cố vấn cho Venceslao. Hai
kẻ sát nhân đã hành sự ngay dưới chân bàn thờ. Sau đó đến lượt
thánh Venceslao, người mẹ ác đức đã xúi Radislas nổi loạn. Ông
này tập trung một đạo quân hùng hậu đến gây chiến. Khi hai bên
giáp trận, thánh Venceslao đã đơn phương độc mã lâm trận chiến
như một David giáp mặt Goliath. Thế nhưng Radislas đã xin đầu
hàng. Ông ta thấy thiên thần trợ chiến cho Venceslao.
Một lần phải
đến tham dự một cuộc họp ở Worm theo lệnh của Hoàng đế Othon I,
thánh Venceslao đã tới trễ. Ngài muốn dự hai thánh lễ. Hoàng đế
bực tức vì sự chậm trễ này, quyết định sẽ không đứng dậy khi
thánh nhân đến. Nhưng rồi khi Ngài tới nơi, ông bỗng đứng lên và
mời ngồi bên cạnh mình. Ông cũng đã thấy hai thiên thần hộ vệ và
bao phủ Ngài bằng một thánh giá vàng.
Boleslaô, theo
lời khuyên của mẹ, quyết hạ sát thánh nhân, hắn lấy tình nghĩa
để che lấp ý đồ đen tối của mình. Được mời tới để mừng lễ hai
thánh Cosma và Đamianô, thánh Venceslao không một chút nghi ngại
gì. Buổi lễ thật linh đình. Đêm sau thánh Venceslao đến nhà thờ
cầu nguyện như thói quen. Boleslaô tàng hình theo sau và đã hạ
sát thánh nhân ngày 28 tháng 9 năm 935. Trước cửa đền thờ, miệng
khẩn cầu ơn tha thứ cho em mình. Thánh nhân từ trần trên vũng
máu đào. Sau cái chết, thánh Venceslao được dân chúng tôn kính
như một vị tử đạo và trở thành đấng thánh bảo trợ cho xứ
Bôhêmia, nay là Czecheslavia.
Mừng lễ thánh
Venceslao, xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho
mỗi chúng ta lòng can đảm dám sống cho sự thật và tình yêu.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-28-09-thanh-venceslaotu-dao-50177 và http://giaophanvinhlong.net/thanh-venceslao.html cả 2 đều giống hệt như nhau
Thánh Laurensô Ruiz
Thánh Laurensô Ruiz là vị thánh đầu tiên của Giáo hội Philippines. Ngài là gia trưởng của gia đình có ba người con. Giáo hội Philippines chọn ngài là vị thánh bảo trợ cho thanh niên Philippines và những người lao động Philippines làm việc ở nước ngoài.
Ngày lễ hôm nay dành để tôn kính một nam giáo dân gốc người Philippin. Thánh Laurensô Ruiz và 15 người bạn đã tử vì đạo để minh chứng đức tin tại Nagasaki, Nhật Bản, vào năm 1637. Sinh tại thành phố Manila, Laurensô lập gia đình và có ba người con. Ngài gia nhập với một nhóm người gồm 9 linh mục thuộc dòng Đa Minh, 2 tu sĩ và 4 giáo dân tình nguyện tới Nhật Bản rao giảng Tin mừng. Tất cả cùng liên kết với dòng Đa Minh và tất cả cùng thà hy sinh mạng sống hơn là chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu. Các ngài là những người nam, người nữ có quốc tịch khác nhau: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Philippin. Các ngài quả thật là hình ảnh nhắc nhớ chúng ta: Giáo hội của Chúa Kitô đã lan rộng ra khắp hoàn cầu!
Các thánh tử đạo này đã chịu đau khổ nhiều trước lúc qua đời, nhưng các ngài vẫn một lòng giữ vững đức tin Công giáo. Người ta ghi nhận rằng thánh Laurensô Ruiz đã nói với các vị quan tòa xử ngài rằng: “Nếu tôi có 1000 mạng sống để dâng cho Đức Kitô, thì tôi sẽ vui mừng dâng từng mạng sống của tôi cho Người!”
Laurensô Ruiz sinh vào khoảng năm 1600 tại Binondo, Manila, Philippines, có cha là người Tây Ban Nha, mẹ là người Philippines. Từ thuở nhỏ, Laurensô Ruiz đã gia nhập ban lễ sinh của giáo xứ, khi trưởng thành là thành viên của nhóm truyền giáo dòng Đaminh.
Năm 1636, khi phụ việc trong văn phòng của họ đạo Binondo, ngài bị vu oan là đã sát hại một người Tây Ban Nha. Để khỏi bị xử tử, ngài đã cùng với các nhà truyền giáo dòng Đaminh trốn sang Nhật Bản. Tại Nhật đang có cuộc bách hại đạo, nên các ngài bị bắt khi tàu cập bến ở Okinawa. Ngày 27.9.1637, Laurensô Ruiz và những người bạn bị đưa đến Nagasaki và bị hành hạ một cách kinh khủng. Cuối cùng, các ngài bị treo ngược, với một vết cắt trên trán, chịu đau khổ từ từ cho đến chết trong một cái hố bẩn thỉu.
Trong khoảng thời gian từ 1633 đến 1637, cùng với Laurensô Ruiz, đã có 15 vị tử đạo là thành viên hoặc có liên hệ với dòng Đaminh đổ máu đào tại Nagasaki. Các ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 18.2.1981 tại Manila và tuyên thánh ngày 18.10.1987. Lễ kính các vị tử đạo được cử hành vào ngày 28 tháng 9 hằng năm.
Chúng ta hãy nài xin thánh Laurensô Ruiz và các Bạn tử đạo thôi thúc các Kitô hữu hôm nay biết trở nên những môn đệ nhiệt thành và quảng đại của Đức Chúa Giêsu. Càng học biết về đức tin bao nhiêu, chúng ta càng yêu mến và chia sẻ với tha nhân bấy nhiêu.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-laurenso-ruiz-va-cac-ban-tu-dao_a7946
Thứ Sáu
(29/9)
BA TỔNG THẦN MINH-KHA, GA-BIÊN VÀ RA-PHIÊN
Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14
"Muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Tôi chăm chú nhìn mãi cho đến khi đặt xong các toà, và vị Bô Lão lên ngự trên toà; áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tinh tuyền như lông chiên, toà của Người như ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Trước mặt Người có con sông lửa cuồn cuộn chảy như thác. Có hằng ngàn kẻ phụng sự Người và muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người: Người ngự toà xét xử và các quyển sách đã được mở ra.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi nhìn thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Kh 12, 7-12
"Michael và các thiên thần của ngài giao chiến với con Rồng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Ðã xảy ra có đại chiến trên trời: Michael và các thiên thần của Ngài giao chiến với con Rồng. Con Rồng và các thiên thần phe nó nghinh chiến. Nhưng nó không có sức cự lại; chỗ của chúng không còn gặp thấy trên trời. Và nó bị xô nhào xuống, con Rồng lớn, con Rắn thái sơ, gọi là quỷ hay Satan, kẻ mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó đã bị xô nhào xuống đất, và các thiên thần phe nó cũng bị xô nhào xuống làm một với nó.
Và tôi đã nghe có tiếng lớn trên trời rằng: "Nay đã thành sự: toàn thắng, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và quyền bính của Ðức Kitô của Người, vì nó đã bị xô nhào xuống, kẻ cáo tội anh em ta, kẻ tố cáo họ ngày đêm trước nhan Thiên Chúa. Và họ đã thắng được nó nhờ máu Chiên Con, và nhờ lời đoan chứng của họ, họ đã không ham sống sợ chết. Vì lẽ ấy, hãy hân hoan, hỡi các tầng trời, và các người ở nơi ấy!"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 4-5
Ðáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: "Thực vinh quang của Chúa lớn lao!" - Ðáp.
Alleluia: Tv 102, 21
Alleluia, alleluia! - Hãy chúc tụng Chúa đi, chư binh toàn thể, chư vị thần hạ thừa hành ý muốn của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 47-51
"Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa". Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Ðó là lời Chúa.
Câu ca khúc nhạc vang ngân
Mừng hàng tổng lãnh thiên thần hiển dương,
Toà cao rực rỡ thiên đường,
Triều thần Vua Cả cao sang lẫy lừng.
Nguyện xin thủ lãnh oai phong,
Mi-ca-en chính tướng hùng thiên binh,
Chúng tôi thân phận mỏng manh,
Ngài giơ tay hữu uy linh giữ gìn.
Xin thiên sứ Gáp-ri-en,
Chúa Cha tuyển chọn loan tin cứu đời,
Xin ngài dẫn dắt chúng tôi
Quang minh chính đại đường đời vững chân.
Ra-pha-en hỡi sứ thần,
Chúng tôi lữ khách tay chân rã rời,
Ngài cho thần dược hôm mai,
Hồn an xác mạnh đường dài quản chi.
Hỡi đoàn thiên sứ quang huy,
Kính xin che chở phù trì chúng tôi,
Một mai đoàn tụ quê trời,
Cùng nhau hưởng phúc an vui vô ngần.
Dâng lời ca tụng tri ân
Chúa Cha, Thánh Tử, Thánh Thần quang vinh,
Ba Ngôi một Chúa nhân lành,
Thiên thu vạn đại đồng thanh hát mừng.
Hỡi Ánh Sáng, hỡi quyền năng Thánh Phụ,
Ôi Giê-su là nguồn mạch tình thương,
Muôn cung đàn hoà điệu hát du dương,
Xin dâng Chúa trước triều thần hiện diện.
Và giờ đây, lời tán dương trìu mến,
Kính mừng đoàn tổng thiên sứ oai phong,
Cảm phục riêng đấng đánh bại Con Rồng,
Ôi vô địch Mi-ca-en dũng tướng !
Tâu Vua Cả, xin cử người ngự xuống
Đuổi ác thù cho mất dạng ngày đêm,
Để chúng con cả hồn xác tinh tuyền
Được ban thưởng thiên đàng ơn trọng hậu.
Lời vinh tụng xen tiếng đàn hoà tấu,
Kính dâng Cha cùng Thánh Tử Thánh Thần
Là Ba Ngôi một Thiên Chúa từ nhân
Hằng hiển trị tới muôn đời muôn kiếp.
Lược sử
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Tổng lãnh Thiên thần Micae, Gabrie và Raphae,
đây là tên tuổi của ba vị Thiên thần đã được Thánh Kinh nhắc đến nhiều
lần, và khi nói đến các Thiên thần là nói đến vô số. Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các
Thiên thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của
Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc
khải cho chúng ta thế giới của các Thiên thần.
Và thuật ngữ Thánh kinh dùng để gọi các Thiên thần đều có nghĩa là “sứ
giả”; theo thư Do thái 1,14, các Thiên thần là những thần linh phục vụ
cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu
giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên
Chúa”. Nổi bật nhất giữa các Thiên thần là các đấng Micae, Kêrubim và
Sêraphim (số ít là Kêrub và Seraf). Vài đấng được gọi tên là:
- Micae, có nghĩa: “Ai
ví bằng Thiên Chúa”
- Gabriel, có nghĩa: “Sức
Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh
hùng của Thiên Chúa”.
- Raphae, có nghĩa: “Thiên
Chúa cứu giúp”.
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Micae trên đường Via
Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh Thiên thần Micae, Hội
Thánh cũng mừng chung hai Tổng lãnh Thiên thần Gabrie và Raphae, theo
lịch xưa, các Ngài được mừng vào những ngày 24-03 và 24-10. (Lm. Nguyễn
Văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
Phân tích
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng nói tương đối ít về các
Thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng này chỉ có một câu “Các Thiên thần của
Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là lấy lại hình ảnh chiếc
thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài
người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: “Ngài
cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người”. Các
Thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
Suy niệm
1. Micae là tổng
lãnh tất cả các Thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên
thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu
Ngài nói “Ai bằng
Thiên Chúa?”.
Xin Thánh Thiên thần Micae trợ
lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ
của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí
cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.
2. Gabrie là Thiên thần truyền tin (Lc
1,19: Truyền tin cho ông Dacaria ; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ).
Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Xin Thánh Thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp
Chúa gởi đến chúng con và mau mắn thưa lời “Xin
vâng” như Đức Mẹ.
3. Raphae là vị thiên thần đã đưa
đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong
cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho
cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài
luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho
Thiên Chúa.
Xin Thánh Thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc
hành trình dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc
thiện, vì luôn biết rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những
làn hương thơm tho bay lên toà Thiên Chúa.
4. Mầm khác: “Thiên
đàng trong cuộc sống”
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu
viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên
tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần
hiện ra và nói:
- “Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã
đến”.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn
phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa,
nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau
khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?”
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách
hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên
thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ
mảnh đất trong vườn và nói:
- “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có
thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”.
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên
thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ
vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời
nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng
chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu
nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo
Ngài”.
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ và
nói: “Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo Ngài về
thiên quốc”.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói: “Này ông thánh nhỏ ơi,
sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình
đã ở đâu?”
Nguyện xin các Thiên thần nhất là Thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn
nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên
Chúa là tình yêu.
http://tinmung.net/CACTHANH/_CacThanh/_Thang09/Cac-Tong-Than/SuyNiem/LeKinhCacTongThan2.htm
Các tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en, Ra-pha-en và Gáp-ri-en
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về Tin Mừng.
Nên biết rằng “thiên sứ” là danh từ chỉ chức vụ chứ không chỉ bản tính, bởi các thánh thiên thần ở trên trời bao giờ cũng là thiên thần, nhưng không phải bao giờ cũng được gọi là “thiên sứ”. Các vị ấy chỉ là “thiên sứ” khi được sai đi loan báo một điều gì thôi. Các vị loan báo điều nhỏ thì gọi là “thiên sứ”, còn vị nào loan báo điều lớn thì gọi là “tổng lãnh thiên sứ”.
Quả thế, không phải bất cứ “thiên sứ” nào cũng được sai đến với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, mà phải là tổng lãnh thiên sứ Gáp-ri-en, vì một thiên sứ cao cả đến loan báo một việc hệ trọng thì thật là chính đáng. Người ta cũng biết đến một số vị nhờ các tên riêng, để thấy được công việc của các ngài qua những danh xưng đó. Trong thành thánh trên trời, nơi tri thức đạt tới mức hoàn hảo nhờ ơn hưởng kiến Thiên Chúa toàn năng thì không cần có tên riêng, vì đâu phải không có tên mà ngôi vị các ngài không được biết đến. Nhưng chỉ khi nào đến với chúng ta để thi hành một tác vụ, thì ở giữa chúng ta các ngài mới mang tên gọi liên quan đến tác vụ đó. Vì thế, Mi-ca-en có nghĩa là “ai bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa là “sức mạnh của Thiên Chúa” và Ra-pha-en có nghĩa là “linh dược của Thiên Chúa”.
Mỗi khi có việc cần đến sức mạnh diệu kỳ, thì đức Mi-ca-en được phái tới, để nhờ hành động và danh hiệu của người, chúng ta hiểu được rằng không ai làm nổi việc mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Bởi vậy, vì kiêu ngạo, kẻ cựu thù kia đã muốn nên giống Thiên Chúa, khi dám nói : “Ta sẽ lên trời, ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa... ta sẽ nên như Đấng Tối Cao.” Trong ngày tận thế, lúc còn được thi thố sức mạnh của mình, trước khi chịu khổ hình đời đời kiếp kiếp, nó sẽ giao chiến với tổng lãnh thiên sứ Mi-ca-en, như lời thánh Gio-an nói : Có cuộc giao chiến với tổng lãnh thiên sứ Mi-ca-en.
Cũng thế, thiên sứ Gáp-ri-en mệnh danh là “sức mạnh của Thiên Chúa” được sai đến với Đức Ma-ri-a làm sứ giả loan báo Đấng đoái thương xuất hiện như một kẻ hèn mọn để chiến đấu chống những quyền lực trên không. Vậy phải nhờ “sức mạnh của Thiên Chúa” mà loan báo Đấng là Đức Chúa nắm giữ quyền lực và oai hùng khi xuất trận sắp ngự đến.
Như đã nói, thiên sứ Ra-pha-en cũng được giải nghĩa là “linh dược của Thiên Chúa”, vì khi người chạm tới đôi mắt của ông Tô-bi-a như làm công việc chữa bệnh, thì người xua tan bóng tối là sự mù loà. Vậy, gọi đấng được sai đến để chữa lành là “linh dược của Thiên Chúa”, thì thật là đích đáng.
Các thiên thần luôn hầu cận trước tôn nhan Chúa, và đồng thanh chúc tụng Người. Vậy chúng ta hãy hợp lời ca ngợi và tung hô :
Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã truyền cho các thiên sứ hằng gìn giữ chúng con trên khắp nẻo đường, - xin cho chúng con ngày hôm nay luôn bước đi trong đường lối Chúa, để không bao giờ phải vấp ngã.
Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.
Các thiên thần hộ thủ chúng con hằng chiêm ngưỡng Chúa, - xin cho chúng con cũng tha thiết tìm kiếm Thánh Nhan.
Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.
Mai kia khi được vào thiên quốc, con cái Chúa sẽ như thiên thần, - giờ đây xin gìn giữ chúng con được xác hồn trong trắng.
Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.
Xin sai phái tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en đến trợ giúp chúng con, - để chiến đấu chống lại mọi mưu thâm chước độc của ác thần.
Hợp cùng các thiên thần,
chúng con xin dâng lời ca ngợi Chúa.
Lạy Chúa là Đấng thượng trí vô song, Chúa đã muốn cho thiên thần và người thế cộng tác vào chương trình cứu độ, xin cho các thiên thần đang phục vụ Chúa trên trời cũng luôn luôn phù hộ chúng con ở dưới đất. Chúng con cầu xin
Thứ Sáu
(Nếu ngày này không trùng với và bị át đi bởi Lễ Kính Các Tổng Thần trên đây)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10
"Còn một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".
Trích sách Tiên tri Khác-gai.
Năm thứ hai triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán: Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".
Vì Chúa các đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của con (c. 5bc).
Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 18-22
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian!
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Dcr 2, 1-5. 10-11a
"Này đây Ta đến và ngự giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Dacaria.
Tôi đã ngước mắt lên và đã nhìn thấy: Kìa, có người cầm dây đo trong tay. Tôi đã hỏi rằng: "Ông đi đâu?" Người ấy đáp: "Tôi đi đo Giêrusalem, coi nó rộng bao nhiêu và dài bao nhiêu". Và đây vị thiên thần đang nói chuyện với tôi ra đi, một thiên thần khác đến đón người và nói: "Hãy chạy lại nói với đứa trẻ ấy rằng: Giêrusalem là nơi trú ngụ không có tường thành, vì trong đó có đông dân cư và súc vật. Chúa phán: "Phần Ta, Ta sẽ nên tường thành lửa đỏ chung quanh nó, và Ta sẽ tỏ vinh quang Ta giữa nó". Chúa lại phán: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta, và Ta sẽ ngự giữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại, và sẽ giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng thành niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Alleluia: Tv 114, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 44b-45
"Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: "Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời". Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm
Thật vậy, Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm về điều kiện làm môn đệ của Chúa Kitô (9:23-27), về biến cố biến hình trên núi (9:28-36), và về sự kiện Người trừ quỉ cho một bé trai (9:37-43a), tương tự như Giáo Hội đã bỏ 2 trong 3 biến cố này ở Phúc Âm Thánh ký Marco trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B đầu tuần, mà chỉ lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần hai cuộc vượt qua của Người.
Đúng thế, bài Phúc Âm hôm nay của Thánh ký Luca là bài Phúc Âm ghi lại lời Chúa Giêsu tiên báo lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người:
"Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các
việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: 'Phần
các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ
phải bị nộp vào tay người đời'. Nhưng các ông không hiểu lời đó,
vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa,
và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".
Như đã cảm nhận về dung nhan lưỡng diện của "Đức Kitô" trong bài Phúc Âm hôm qua, một dung nhan có bộ mặt trái rất ư là kinh hoàng khiến cho chính vị trưởng tông đồ đoàn là Thánh Phêrô cũng phải vấp phạm. Bởi thế, sau khi tiết lộ về mầu nhiệm vô cùng bí mật này, Người chỉ dám tiết lộ sau khi đã thấy được đức tin thật chính xác của thành phần môn đệ tông đồ của Người, và Người cũng đã phải tìm cách củng cố cho đức tin của các vị nữa, bằng cách Người đã tỏ vinh quang của Người ra cho các vị một cách rạng ngời, qua việc Người biến hình trên núi cao, ám chỉ cuộc phục sinh khải hoàn của Người, như cả 3 Phúc Âm Nhất lãm đều thuật lại sau lần tiết lộ đầu tiên ấy.
Trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay cũng thế, trước khi Người báo trước cuộc vượt qua của Người lần thứ hai, một mầu nhiệm chưa thể nào thấu hiểu và chấp nhận được đối với trí khôn phàm nhân của các tông đồ, cũng như nhất là đối với tâm thức của các vị về một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng giải phóng vẫn thường thấy trong Lịch sử Cứu Độ của Dân Do Thái, Người cũng phải lợi dụng: "Ðang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ..." về mầu nhiệm ấy, một mầu nhiệm quan trọng đến độ Người đã nhấn mạnh với các tông đồ rằng: "các con hãy ghi vào lòng những lời này...".
Phần các tông đồ, thành phần đã từ bỏ mọi sự mà theo Người, không biết có phải hoàn toàn vì lý do trần tục hay chăng, ở chỗ các vị hy vọng sau này có thể được vẻ vang bởi các vị đã trở thành chân tay thân tín của chính Đấng Thiên Sai đầy uy quyền của Thiên Chúa, như các vị đã có lần tranh nhau ngôi thứ, được Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B đầu tuần? Cho dù không hoàn toàn như thế, nhưng đứng trước một mầu nhiệm siêu việt ấy, Phúc Âm hôm nay đã cho biết: "các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy".
Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và các bài Phúc Âm nói riêng (nhất là hôm qua và hôm nay đều về lời tiên báo cuộc vượt qua liền nhau) cho ngày thường trong Tuần XXV Thường Niên này, từ Thứ Hai tới hôm nay cuối tuần, dường như đều hướng về chung nhân tính của Chúa Kitô và riêng thân xác của Người.
Trong lời tiên báo lần thứ hai của Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời", hoàn toàn chỉ liên quan đến cuộc khổ nạn của Người mà thôi, không hề đả động gì tới sự kiện phục sinh của Người, như lần đầu tiên Người tiên báo (ở bài Phúc Âm hôm qua). Sự kiện "Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời" dường như đã được Tiên Tri Giacaria ở Bài Đọc 1 hôm nay, diễn tả liên quan đến kích thước của Thành Thánh Giêrusalem: "Tôi đã ngước mắt lên và đã nhìn thấy: Kìa, có người cầm dây đo trong tay. Tôi đã hỏi rằng: 'Ông đi đâu?' Người ấy đáp: 'Tôi đi đo Giêrusalem, coi nó rộng bao nhiêu và dài bao nhiêu'".
Nếu Đền Thánh Giêrusalem là biệu hiệu ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân của Ngài thì Thành Giêrusalem là biểu hiệu ám chỉ chính dân của Ngài, một thành phần dân mà Ngài muốn ở với họ và ngự giữa họ, bằng việc Ngài liên tục tỏ mình ra cho họ qua giòng lịch sử cứu độ của họ, cũng như bằng việc họ nhận biết Ngài. Chính vì Chúa Kitô Thiên Sai Cứu Thế đến là "để hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28) mà Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa nói riêng và những ai tin Chúa Kitô nói chung mới cần phải được cân đo kích thước.
Đúng thế, Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái và đồng thời cũng chính vì thế còn là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại nữa. Do đó nên vì Thành Giêrusalem ám chỉ tất cả thành phần dân được cứu chuộc tin vào Chúa Kitô, chứ không phải chỉ có dân Do Thái, mà thành này mới "không có tường thành", trái lại, theo lời Chúa phán trước trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "Trong ngày ấy, sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta, và Ta sẽ ngự giữa ngươi".
Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 31, bao gồm cả 2 vai trò của Chúa Giêsu Kitô: vai trò Thiên Sai đối với dân Do Thái lẫn vai trò Cứu Thế đối với toàn thể nhân loại, một Bài Đáp Ca chất chứa lời kêu gọi liên quan đến dân ngoại: "Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel sẽ quy tụ nó lại, và sẽ giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình" (câu xướng 1). Tại sao? (liên quan đến dân Do Thái) - "Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó" (câu xướng 2). Về những gì? (liên quan đến cả dân ngoại lẫn dân Do Thái) - "Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người" (câu xướng 2); "Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng thành niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ" (câu xướng 3).
Ngày 30 tháng 9
Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Thánh Giêronimô qua đời tại Bethléem ngày 30 tháng chín năm 419 hoặc 420. Lễ kính ngài đã khá phổ biến ở Gaule trong thế kỷ VIII, sau đó lan khắp phương Tây (thế kỷ IX – X).
Giêrônimô hay “Eusebius Hieronimus Sophronius”
sinh khoảng năm 340 tại Stridon, gần trên giới Nam Tư, trong một gia
đình Kitô giáo, sung túc. Đến Rôma, Giêronimô theo học trường của
nhà tu từ nổi tiếng Donatius và vì rất mê say văn chương cổ điển,
Giêronimô có
công tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá, và đã
tạo cho mình một thư viện phong phú. Lúc
học ở Roma, Giêrônimô sống hơi buông thả một chút nhưng lúc nào cũng giữ
được lòng kính sợ Thiên Chúa.
Khoảng năm 372, Giêronimô sang phương Đông, và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria, nhưng khi ngài đến Antiochia thì ngã bệnh. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình. Trong bức thư (nổi tiếng) gửi Eustochium, Giêronimô kể lại trường hợp lương tâm Kitô giáo của ông bị mê hoặc theo văn chương đời, vì, trong một thị kiến, Thiên Chúa xét xử đã nói với Giêronimô rằng:
- Giêrônimô, con là ai vậy ?
Ngài trả lời:
- Con là con của Chúa, con là người có đạo.
Chúa trả lời lại:
- Nói láo! Phải nói con là của Cicêrô mới đúng.
Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là
một nhà văn vừa là một nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô
quyết tâm sửa mình lại.
Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích
duy nhất để có đủ khả năng dịch sánh Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng
Latinh.
Lúc bấy giờ Giêronimô rút vào hoang mạc Chalcis (Syria), nơi đây có nhiều nhà khổ tu; tại đây ông học tiếng Hêbrơ. Sau đó ông trở lại Antiochia, thụ phong linh mục, rồi đến Constantinôppôli (380-381), tiếp tục học khoa chú giải với thánh Apollinaire de Laodicée và thánh Grégoire de Naziance, dịch các bài giảng của Origène từ tiếng Hy Lạp và cuốn Chronique của Eusèbe de Césarée.
Ngài trở lại Constantinople vào khoảng năm 380, ở lại đó vài năm, có thể ngài đã thụ huấn với thánh Grégoire de Nazianze, vì chúng ta thấy ngài gọi thánh nhân là “Thầy tôi”. Ngài đã không đề cập gì đến Công Đồng Constantinôpôli vào năm 381, mặc dầu đây là Công Ðồng hết sức quan trọng đối với Ðông phương, minh định Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha. Ngài khởi sự công việc dịch thuật với các bản văn của Eusèbe và Origène.
Năm 382,
ngài tháp tùng Đức Giám Mục Paulin và Épiphane de Salamine tới Rôma dự
Công Ðồng do hoàng đế Tây phương là Gratien triệu tập. Ðức Giáo Hoàng Damase
(366 – 384), một người có những tham vọng lớn đối với Roma, đã biết tận dụng
năng lực của ngài, chọn ngài làm thư ký, giao nhiệm vụ quản lý văn khố và
thủ thư, đề nghị ngài duyệt lại bản văn Kinh Thánh Latinh dùng trong phụng
vụ, Phúc Âm, Thánh vịnh. Giêrônimô ủng hộ Ðức Giáo Hoàng trong việc chống
lại các đồ đệ của Lucifer de Cagliari, một người “bài-Ariô” bảo
thủ, không nhận định rõ về nhân tính của Chúa Giêsu, và chống Helvidius, kẻ
công kích sự đồng trinh vĩnh viễn của Ðức Maria cách khá thô tục. Và
cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc hết sức
quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sang
tiếng Latinh.
Đồng thời, Ngài làm linh hướng cho nhiều phu nhân trong giới quí tộc như Marcella, một góa phụ được nhiều người săn đón và Asella con gái bà; Paula, một góa phụ khác rất mộ đạo, cùng với các con gái; Blésilla, khá lịch thiệp; Estochium, con người khổ hạnh và Paulina người lấy nghị viên Pammachius. Giêrônimô vị linh hướng của họ, khai tâm cho họ về Kinh Thánh, bàn luận về tiếng Hipri trong các bức thư gửi cho Marcella. Bù lại, ngài nhận được cơ man là quà tặng. Một bên có Ðức Giáo Hoàng Damse, một bên có các gia đình Rôma quyền quí, kẻ lãng du của Chúa đạt tới đỉnh cao trên con đường nhập thế của mình. Ngài thổ lộ với Asella: “Hầu như mọi người đều nghĩ và quyết rằng cha xứng đáng với ngôi Giáo Hoàng”. Tuy nhiên, những mối quan hệ này không phải là không gặp những đối nghịch, chỉ trích. “Tòa án của biệt phái, những kẻ giả đạo đức” thậm chí còn khởi tố ngài.
Ở Roma được một thời gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích
hợp cho công việc quá đặc biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào
sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây
suốt 34 năm trời... vừa tiếp tục học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong
các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ
bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.
Sau này chính Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn
được coi là văn bản chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma.
Ngài là bạn rất thân của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có
nhiều lần nhắc đến Ngài như một người bạn và như một bậc thầy.
Theo cuốn niên sử ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420,
hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.
Mặc dầu qua đời ở Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn
thể thế giới công giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma,
người ta kính thánh nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức
Giáo Hoàng Bônifaciô VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ
ngang hàng với thánh Grêgôriô cả, thánh Âutinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị
giáo phụ ở Tây phương.
2- Thánh Giêrônimô: Ở Bêlem
Và rồi, năm 384, Ðức Giáo Hoàng Đamasô qua đời (11-12-384), cả Blésilla cũng chết, có lẽ vì chay tịnh quá sức theo lời khuyên của ngài. Vào tháng 8 năm 385, để tránh chống đối, Ngài rời Rôma, thành Babylon tội lỗi, nơi mà ngài hẳn đã trở thành kẻ ít được ai ưa, nhưng ngài ra đi với một chương trình: dịch thuật Kinh Thánh sẽ là công việc chính yếu của ngài. Bằng cách đi qua Antiokia và Alexanđria, ngài tới Bêlem vào năm 386.
Ngài ra đi về Ðông phương cùng với em trai là Paulinien, trong khi đó Paula, đóa hoa tươi đẹp trong những người bạn Rôma của ngài và nhất là Eustochium, con gái bà, cùng với một số đan sĩ cũng đến Ðông phương qua ngã khác. Ngài du hành qua Palestine và Ai Cập. Lúc đó Rufin bạn xưa của ngài đang ở tại Jérusalem, gần chỗ bà Mélanie l’ Ancienne, một phụ nữ Rôma khác thuộc gia đình quí tộc, hết sức giàu có, đã đem tiền của thiết lập một liên – đan viện tại đồi Cây Dầu, được con gái bà là Mélanie nhỏ, con bà, biến thành nổi tiếng.
Năm 386, Giêrônimô chọn ở lại Bêlem. Gia tài của Paula được xử dụng để xây ba nữ đan viện, phân chia theo giai cấp xã hội, trong khi đó, ngài xây một nam đan viện. Một cách nào đó ngài là đan viện phụ, còn Paulinien em ngài làm quản lý. Với những tài liệu nghiên cứu Kinh Thánh mang theo, Ngài chuyên cần giảng dạy, nhất là Kinh Thánh, làm việc rất nhiều và tranh cãi cũng lắm. Ngài tranh cãi với Rufin và Jean de Jérusalem “Kẻ ngạo mạn nhất trong số các Giám mục”, về bản văn và sự chính thống của Origène, tranh luận với Jovinien về sự đồng trinh và chay tịnh, và một lần nữa tranh luận với Vigilantuis về các thánh tích và về cơ chế đan tu . Những mối ác cảm của ngài còn ầm ỉ hơn cả những tình bạn của ngài, những mối thân hữu đó đang dần dần mất đi: Paula, Marcella và cuối cùng là Eustochium lần lượt qua đời.
Chính tại Bêlem, thánh nhân có thể toàn tâm toàn ý hoàn tất bản dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp (bản Septuaginta) và từ Hebreu (phần lớn Cựu ước). Trong các tác phẩm lịch sử của thánh nhân, ngoài các tác phẩm khác, có thể kể De viris illustribus (Những con người lừng danh) là bản tổng kết quí báu bốn thế kỷ văn chương Kitô giáo. Cũng cần nhắc đến lượng thư từ đồ sộ ngài viết, từ mẫu giấy nhỏ đến cả thiên luận thuyết quan trọng, hiện giờ chúng ta còn lưu giữ được trên một trăm hai mươi thư.
Giêronimô cũng là một nhà bút chiến dữ dội và đáng gờm. Năm 383, ngài từng phản bác Helpidius phủ nhận sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria. Sau đó, Ngài tấn công Vigilance để bênh vực việc tôn kính các vị tử đạo và một số tập quán trong đời tu dòng. Trong cuộc tranh luận lâu dài về Origène (393-402), thánh Giêronimô chống lại Rufin và Jean, Giám mục Jérusalem. Những năm cuối đời ngài gặp nhiều chuyện buồn: Các đồ đệ và bạn hữu qua đời; quân man di xâm chiếm, đốt phá các tu viện.
Việc Rôma bị xâm chiếm năm 410 là cái tang không kém phần đau đớn đối với ngài, một người luôn ý thức mình là dân Latinh và là kẻ rất say mê Kinh Thánh. Ít lâu sau, chính nơi lưu ngụ của ngài cũng bị quân Sarrasins đe dọa, và đan viện của ngài đã bị phái Pêlagiô thiêu hủy.
Cuối cùng, ngày 30 tháng 9 năm 419, ngài qua đời ở Belem, thọ tám mươi tuổi. Belem là nơi ngài từng lao động trí tuệ và đền tội suốt ba mươi lăm năm cuối đời.
Thánh Giêronimô là một trong những vị thánh thường được nhiều ảnh tượng Công giáo ghi khắc, khi là một hối nhân nơi hoang mạc (Lorenzo Lotto, Louvre; Rubens, Dresde; Van Dyck, Dresde; L.Giordano, Madrid …), khi là một tiến sĩ Hội Thánh hay một Hồng y, đôi khi có thêm một con sư tử mà ngài từng nhổ cái gai ở chân cho (Durer, Petit Palais, Paris).
Công trình lớn của ngài là duyệt xét có phê phán bộ Kinh Thánh đã dịch sang tiếng Latinh (Bản Vulgata) và giải thích trong bộ chú giải. Bản Vulgata [có nghĩa là bản Kinh Thánh phổ thông] dựa trên những bản dịch Latinh cổ (Vetus Itala), nhưng cũng dựa trên các bản gốc bằng tiếng Do Thái và Hy Lạp. Bản này được xem là bản dịch chính thức của Giáo hội Công giáo và sẽ được công nhận là bản đích thực có giá trị, do Công Đồng Trente năm 1546.
3- Thánh Giêrônimô: Tự Thú
Sau đây chúng ta ghi lại một số nhân xét đáng lưu ý của thánh nhân về chính bản thân của ngài:
MỘT TỬ THI MÀ “LỬA DỤC LẠC VẪN SÔI SỤC” TRONG CON NGƯỜI.
Tại nơi cô tịch, trong cảnh ẩn tu, Ngài viết: “Ôi đã bao nhiêu lần, tôi, kẻ đã ở trong sa mạc, trong cõi cô tịch mênh mông cháy bỏng ánh mặt trời, nơi ở hãi hùng dành cho các đan sĩ thế mà cứ ngỡ đang hòa mình giữa những lạc thú của Rôma. Tôi ngồi, đơn độc, bởi nỗi đắng cay đã xâm chiếm toàn thân. Các chi thể dị dạng của tôi đều thô sần cả lên. Da dẻ dơ bẩn giống như nước da tồi tàn của một tên hắc chủng. Ngày nào cũng khóc, ngày nào cũng than! Mỗi lần giấc ngủ ập đến, dù đã chống chọi, thì xương cốt tôi gần như rời rã, va đập xuống nền đất trần không. Về thức ăn, của uống, tôi chẳng nói làm gì: ngay cả những người bệnh cũng chỉ dùng nước lạnh, nhận một đĩa đồ nóng đã là quá đáng. Ô vậy mà tôi, phải, chính tôi, kẻ vì sợ hỏa ngục đã tự đày đọa, giam hãm mình trong một ngục tù khổ sở đến thế, chẳng có bạn bè nào khác ngoài bò cạp và thú dữ. Tôi lại thường xuyên ngỡ mình đang tham dự những buổi khiêu vũ của các cô thiếu nữ. Chay tịnh làm mặt tôi tái nhợt, thân xác giá băng nhưng ngọn lửa dục vọng lại thiêu đốt lòng trí. Trước mặt kẻ khốn khổ này, một kẻ đã trở thành xác chết hơn là một thân xác sống động chỉ còn những đám lửa khoái lạc là sục sôi.
Không còn gì để nương cậy, tôi nằm dài dưới chân Giêsu, lấy nước mắt tưới đẫm chân Ngài, lấy tóc mình mà lau. Xác thịt có nổi loạn thì tôi chế ngự nó bằng chay tịnh trong nhiều tuần lễ. Tôi không hổ nhục vì nỗi bất hạnh của mình, đúng hơn tôi than khóc vì không còn được như thuở ấy. Tôi còn nhớ: Tôi thường kêu van suốt cả ngày đêm và chỉ ngừng đấm ngực vật vã khi đã bình tâm lại trước những đe dọa của Thầy Chí Thánh.” (Thư 22, 7 gửi Eustochium, CUF, 1949,p. 117 – 118, trad. J. Labourt.)
ÐÊM TỐI CỦA GIÊRÔNIMÔ : CUỘC TRỞ VỀ VỚI KINH THÁNH.
Ðã từ lâu lắm, vì Nước Trời, tôi từ bỏ cha mẹ, chị em, họ hàng và gay go hơn nữa, từ bỏ thói ăn sung mặc sướng; tôi đi Giêrusalem chiến đấu vì Ðức Kitô. Nhưng đối với thư viện mà tôi khổ công xây dựng ở Rôma, thì tôi không thể bỏ qua nổi. Thật khốn khổ! Trước khi đọc Cicéron là tôi ăn chay kiêng cữ, nhiều đêm nằm thức trắng nhớ lại tội lỗi ngày xưa mà lòng ứa trào nước mắt. Sau đó tôi lại cầm nhà thi sĩ Plaute đọc! Nếu hồi tâm lại, bắt đầu đọc một tiên tri thì thứ ngôn ngữ bán khai đó lại làm tôi kinh hãi. Ðôi mắt mù lòa khiến tôi không nhìn thấy ánh sáng. Ấy thế mà thay vì kết tội chính đôi mắt mình tôi lại kết tội mặt trời. Con rắn thái sơ (tức ma quỉ) đã phỉnh phờ tôi như vậy đó.
Vào khoảng giữa mùa Chay, cơn sốt len vào tận nơi sâu thẳm nhất của con người tôi, xâm chiếm thân xác kiệt quệ của tôi, không để yên một giây phút và, thật khó tin nổi, nó tiêu hủy chi thể tôi đến mức chỉ còn da bọc lấy xương. Trong khi đó, người ta chuẩn bị tang lễ cho tôi vì toàn thân tôi đã giá lạnh, sự sống, hơi nóng, hơi thở chỉ còn phập phồng nơi khoảnh ngực còn ấm. Ðột nhiên, tôi ngất trí. Kia là tòa án của vị Thần phán, người ta đang điệu tôi đến đó. Người ta cật vấn tôi là ai, tôi trả lời: “Tôi là Kitô hữu”. Nhưng vị ngồi trên tòa phán: “Ngươi nói dối, ngươi là kẻ theo Cicéron, ngươi không phải là Kitô hữu”, “kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó”.
Lập tức tôi trở nên câm lặng. So với những đòn roi, vì Ngài ra lệnh cho người ta đánh tôi, thì sự dày vò của lương tâm còn gây vết hằn đau gấp bội. Tôi tự nhủ: “Nhưng trong âm phủ ai sẽ ca tụng Ngài?”, nhưng rồi tôi bắt đầu kêu khóc, lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Lời kêu xin vang lên giữa những làn roi, cuối cùng, những người tham dự quì mọp dưới chân vị chủ tọa van xin Ngài gia ân cho chàng thanh niên trẻ tuổi là tôi đây, cho tôi được thống hối lỗi lầm; nếu sau này tôi lại đọc văn chương ngoại giáo thì sẽ phải chịu hình phạt xứng đáng. Phần tôi, lâm vào thế cùng, tôi sẵn sàng đoan hứa nhiều hơn thế nữa. Vậy là tôi bắt đầu thề, lấy Danh Ngài làm chứng, tôi nói: “Lạy Chúa, nếu bao giờ con có những tác phẩm đời, hay nếu con đọc chúng thì như là con chối Chúa vậy”. Sau khi đã thốt lên lời thề đó, người ta thả tôi ra, và này tôi trở về trần thế. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi mở mắt ra. Mắt tôi đẫm lệ đến nỗi những người hoài nghi nhất cũng nhận thức nỗi đau đớn của tôi. Ðó không phải là giấc ngủ, cũng chẳng phải là cơn mộng mị hão huyền thường lừa dối chúng ta. Bằng chứng là phiên tòa mà tôi bị điệu đến, bằng chứng là cuộc phán xét thật kinh khiếp – ước gì đừng bao giờ tôi phải chịu sự tra hỏi như thế – vai tôi đã sưng phù và tôi còn cảm giác về những vết thương khi thức giấc. Từ đó, tôi đọc sách Thánh một cách chuyên chú hơn so với ngày xưa khi tôi đọc sách của người phàm. (Lettre 22, 30, A Eustochium, ibid, p. 144 – 146.)
4- Thánh
Giêrônimô: Mô phạm
1. Dám
hy sinh vì Chúa.
Bỏ cả sở thích riêng của mình. Khi được Chúa "cảnh cáo" dù chỉ là trong một
giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó
nhưng Giêrônimô đã làm được.
Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một
công trình lớn - là công trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang
tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời
giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như thế nào.
Để có một chút so sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng
ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà
chỉ mới đây chúng ta mới có một tin vui là nhóm PhụngVụ Giờ Kinh cho ra đời
trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản
những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu sai sót.
Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm
cỡ và xứng đáng như thế.
Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại đó. Giáo hội
dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định
về tầm quan trọng và chỗ đứng cũa nó trong lịch sử Giáo hội.
2. Tiếp
đến Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm
hết sức mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.
Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang
suy tàn và thời đại văn minh Tây phương đi lên.
Phải nói Giêrônimô là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu
của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung
cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ
bằng tiếng Latinh sang tiến địa phương cũng nhắm chiều hướng này.
Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô
đã nghi đến việc phát động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì
phải coi đây là sáng kiến và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội
mới thấy sự cấn thiết của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và
thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên
cứu và chú giải Thánh kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó
là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại”
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp các tài
liệu của
Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục.
Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2)
Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.
Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.
Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”
Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh linh mục Giê-rô-ni-mô trí thông hiểu và lòng mến yêu Kinh Thánh, xin cho chúng con hằng thiết tha tìm đến lời Chúa là nguồn mạch ban sức sống dồi dào. Chúng con cầu xin
Thứ Năm Tuần Thánh 18/4/2019, nhân chuyến Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 12 ngày 12-22/4/2019,
Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương), nhân kính viếng Hang Belem ở Nhà Thờ Giáng Sinh,
đã ghé viếng cả hang động Thánh Giêrônimô ở hầm Nhà Thờ Thánh Catarina Alexandria Tử Đạo.
Từ cửa phía bắc của Nhà Thờ Giáng Sinh, khách hành hương bước ngay vào Nhà Thờ Thánh Catarina thành Alexandria
Nhà Thờ Thánh Caterina này là nhà thờ Công giáo của cộng đoàn tín hữu Công giáo ở Belem,
nơi hằng năm phát hình Thánh Lễ Giáng Sinh Đêm khắp thế giới
Tiến vào nhà thờ này để xuống Hang Động Thánh Giêrônimô, vị Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Hội Thánh về Thánh Kinh
Thánh Giêrônimô ở hang động này để chuyển dịch Thánh Kinh từ tiếng Hy Lạp và Do Thái sang tiếng Latinh,
trong thời khoảng từ 386 đến năm 404. Và bản dịch của ngài là bản dịch được Giáo Hội coi là bản dịch chính thức của mình và gọi là Bản Vulgata.
Ngoài ra, ngài còn diễn giải Thánh Kinh một cách rất kỹ lưỡng đâu vào đó nữa.
Ngài là vị thánh học giả thánh kinh uyên bác và tiên khởi của thế giới Kitô giáo,
nên được tôn kính bởi tất cả các Giáo Hội Kitô giáo (Công giáo và Chính Thống) và giáo phái Kitô giáo (Anh giáo và Tin Lành)
Thật ra Thánh Giêrônimô là một nhà trí thức tìm kiếm chân lý và đã trở lại Kitô giáo như Thánh Âu Quốc Tinh vậy.
Ở Roma, ngài được quen biết bởi một số phụ nữ thế giá và học thức,
như các bà góa Lea, Marcella và Paula cùng với 2 con gái của bà Paula là Blaesilla và Eustochium.
Vào Tháng 8/385, ngài rời Roma và cuối cùng ở Thánh Địa với em trai của mình là Paulinian cùng Paula và Eustochium.
(Trong 4 nhân vật 2 nữ và 2 nam trong hình trên đây, nhân vật có hình sáng là Thánh Jeronimo)