Tông Thư
KINH MÂN CÔI TRINH NỮ MARIA
ROSARIUM VIRGINIS MARIAE


(Chuyển dịch từ Mạng Điện Toán Toàn Cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_letters/documents/hf_jp-ii_apl_20021016_rosarium-virginis-mariae_en.html)

 

Nội dung và bố cục của bức Tông Thư này như sau:

  • Dẫn Nhập (1-8)
  • Chương Nhất: Chiêm Ngưỡng Chúa Kitô Với Mẹ Maria (9-17)
  • Chương Hai: Những Mầu Nhiệm Của Chúa Kitô – Những Mầu Nhiệm Của Mẹ Người (18-25)
  • Chương Ba: “Đối Với Tôi Sống Là Chúa Kitô” (26-38)
  • Kết Luận: (39-43)

Nếu Di Sản của Đức Gioan Phaolô II cho Ngàn Năm Thứ Ba Kitô giáo chẳng những, trước hết ở "việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô”, sau nữa, lại còn ở “việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Người”, thì Chương 1 và 2 là những gì cần phải đặc biệt chú trọng và thực hành.
 

Chương Nhất
Chiêm Ngưỡng Chúa Kitô Với Mẹ Maria
Một Dung Nhan Tỏa Rạng Như Mặt Trời

9. “Và Người biến hình trước mắt các vị, mặt Người sáng láng như mặt trời” (Mt 17:2). Cảnh tượng được Phúc Âm thuật lại về việc biến hình của Chúa Kitô làm cho ba vị Tông Đồ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đầy hân hoan vui thú có thể được coi như là một hình ảnh cho Kitô hữu chiêm ngắm. Việc nhìn lên dung nhan Chúa Kitô, việc nhận biết vể mầu nhiệm của dung nhan này ở giữa những biến cố và khổ đau hằng ngày nơi cuộc sống con người, để rồi thấu nhập vào ánh rạng ngời thần linh đã được trọn vẹn tỏ hiện nơi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng hiển vinh ngự bên hữu Chúa Cha, đó là việc làm của hết mọi người môn đệ theo Chúa Kitô, do đó, cũng là công việc của mỗi một người chúng ta. Trong việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, chúng ta tiến đến chỗ mở lòng mình ra đón nhận mầu nhiệm sự sống Chúa Ba Ngôi, cảm nghiệm sống động hơn bao giờ hết tình yêu của Chúa Cha và hân hoan trong niềm vui của Chúa Thánh Thần. Bấy giờ những lời của Thánh Phaolô sau đây mới được thể hiện nơi chúng ta: “Chúng ta càng ngày càng được biến đổi trong vinh hiển của Chúa là điều được thực hiện bởi Thần Linh Chúa” (2Cor 3:18).

Mẹ Maria, Mô Phạm Chiêm Niệm

10. Việc chiêm ngắm Chúa Kitô đã được thể hiện nơi một mô phạm khôn sánh là Mẹ Maria. Dung nhan của Người Con này đặc biệt thuộc về Mẹ Maria. Chính trong cung lòng của Mẹ mà Chúa Kitô đã được hình thành, khi Người nhận lấy từ nơi Mẹ một hình ảnh giống như con người, một hình ảnh cho thấy cái giống nhau thiêng liêng còn hơn thế nữa. Không một ai đã từng chú trọng vào việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô một cách trung thành cho bằng Mẹ Maria. Ánh mắt của trái tim Mẹ đã hướng về Người vào lúc Truyền Tin, khi Mẹ thụ thai Người bởi quyền phép Thánh Linh. Vào những tháng sau đó, Mẹ bắt đầu cảm nhận được sự hiện diện của Người và mường tượng thấy được những đường nét của Người. Cho đến khi Mẹ hạ sinh Người ở Bêlem, đôi mắt của Mẹ trìu mến nhìn vào dung nhan Người Con Mẹ, khi Mẹ “bọc Người trong khăn và đặt Người vào máng cỏ” (Lk 2:7).

Sau đó, ánh mắt đầy kính tôn và suy tưởng của Mẹ Maria không bao giờ xa lìa Người. Có những lúc nó là một cái nhìn thắc mắc, như trong trình thuật tìm thấy Người trong Đền Thờ: “Hỡi Con, sao con lại đối xử với chúng tôi như vậy?” (Lk 2:48); nó bao giờ cũng là một cái nhìn thấu suốt, một cái nhìn có khả năng thấu hiểu được Chúa Giêsu , cho đến độ nhận thấy được cả những xúc cảm kín đáo của Người và tiên vọng được cả những quyết định của Người, như ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:5). Có những lúc nó là một cái nhìn sầu bi, nhất là ở dưới chân cây Thập Giá, nơi mà cái nhìn của Mẹ cũng giống như cái nhìn của một người mẹ đang lâm bồn sinh con, vì Mẹ Maria chẳng những thông phần khổ nạn và tử nạn với Con Mẹ, mà còn nhận lấy một người con mới được trao phú cho Mẹ nơi bản thân của người môn đệ Chúa Giêsu yêu (x Jn 19:26-27). Vào buổi sáng lễ Phục Sinh, cái nhìn của Mẹ là một ánh mắt rạng ngời niềm vui Phục Sinh, và sau hết, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, cái nhìn của Mẹ là một ánh mắt bừng sáng bởi Thần Linh được tuôn đổ xuống (x Acts 1:14).

Mẹ Maria Tưởng Nhớ

11. Mẹ Maria đã sống động bằng đôi mắt gắn chặt vào Chúa Kitô, lưu giữ hết mọi lời Người nói: “Mẹ giữ lấy tất cả những điều này mà suy niệm trong lòng” (Lk 2:19; x 2:51). Những ký ức về Chúa Giêsu được in sâu trong lòng Mẹ ấy luôn luôn ở với Mẹ, khiến cho Mẹ suy nghĩ vào những giây phút khác nhau của cuộc đời Mẹ ở bên Con Mẹ. Những điều Mẹ tưởng niệm này có thể được coi như là “kinh mân côi” Mẹ không ngừng lần suốt cuộc sống trần gian của Mẹ.

Ngay cả cho đến lúc này, giữa những bài ca hân hoan trên Giêrusalem thiên quốc, những lý do khiến cho Mẹ dâng lời tạ ơn và chúc tụng vẫn cứ thế không thay đổi. Những lý do ấy thôi thúc Mẹ quan tâm đến Giáo Hội lữ hành, một Giáo Hội Mẹ tiếp tục diễn lại những trình thuật Phúc Âm về Mẹ. Mẹ Maria không ngừng bầy ra trước mắt tín hữu “những mầu nhiệm” của Con Mẹ, ước mong rằng việc chiêm ngưỡng những mầu nhiệm này sẽ làm cho những mầu nhiệm ấy phát sinh ra tất cả quyền lực cứu độ của mình. Khi lần hạt Mân Côi, cộng đồng Kitô hữu đi đến chỗ giao tiếp với những gì Mẹ Maria tưởng nhớ cũng như với ánh mắt chiêm ngắm của Mẹ.

Kinh Mân Côi, Một Kinh Nguyện Chiêm Niệm

12. Chính vì được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng của Mẹ Maria, Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tuyệt hảo. Thiếu chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa của mình, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tỏ tường vạch ra cho thấy: “Thiếu chiêm niệm, Kinh Mân Côi là một cái xác không hồn, và việc lần hạt có nguy cơ sẽ trở thành một việc lập đi lập lại theo công thức cách máy móc, phạm đến lời cảnh cáo của Chúa Kitô: ‘Khi cầu nguyện chớ lảm nhảm như kiểu của Dân Ngoại, vì họ nghĩ rằng cứ phải nhiều lời thì việc cầu nguyện của họ mới có công hiệu’ (Mt 6:7). Tự bản chất của mình, việc lần hạt Mân Côi đòi phải có một nhịp điệu nhẹ nhàng và một tốc độ chậm rãi, giúp cho con người nhờ đó có thể suy niệm về các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những gì đã được nhìn thấy bằng ánh mắt của Vị đã ở gần Người nhất. Nhờ đó, kho tàng khôn thấu của các mầu nhiệm này mới được tỏ hiện” (Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 47: AAS [1974], 156).

Cần phải ngừng lại để suy nghĩ về điều minh thức sâu xa này của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, để làm sáng tỏ một số khía cạnh về Kinh Mân Côi là kinh cho thấy rằng kinh này thực sự là một hình thức chiêm niêm nhắm vào Chúa Kitô.

Tưởng Nhớ Chúa Kitô Với Mẹ Maria

13. Trước hết, việc Mẹ Maria chiêm niệm là việc Mẹ tưởng niệm. Chúng ta cần hiểu chũ tưởng niệm (zakar) này theo nghĩa của Thánh Kinh như là việc làm hiện thực những công cuộc của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Thánh Kinh là một trình thuật về các biến cố cứu độ mà tuyệt đỉnh là chính bản thân Chúa Kitô. Những biến cố này chẳng những thuộc về “ngày hôm qua”; những biến cố cứu độ ấy còn làm nên ơn cứu độ của “ngày hôm nay” nữa. Việc làm hiện thực này trước hết diễn ra nơi Phụng Vụ, ở chỗ, những gì Thiên Chúa đã hoàn tất nhiều thế kỷ trước đây chẳng những có tác dụng trực tiếp nơi những chứng nhân thấy được các biến cố đó; mà còn tiếp tục tác dụng con người ở mọi thời đại bằng ân sủng phát xuất từ những việc làm của Thiên Chúa ấy nữa. Ở một mức độ nào đó, điều này cũng đúng đối với hết mọi cách thức đạo đức nào khác dẫn tới những biến cố này, vì việc “tưởng nhớ” những biến cố ấy trong tinh thần đức tin và yêu thương là việc mở lòng mình ra trước ân sủng đã được Chúa Kitô chiếm lấy cho chúng ta bằng những mầu nhiệm đời sống, tử nạn và phục sinh của Người.

Tóm lại, trong khi cần phải theo Công Đồng Chung Vaticanô II tái xác nhận rằng Phụng Vụ, một cử hành bởi vai trò tư tế của Chúa Kitô và một hành động tôn thờ công khai, là “tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội phải qui về và là nguồn mạch phát sinh ra tất cả quyền lực của Giáo Hội” (Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 10), cũng cần phải nhắc lại rằng đời sống thiêng liêng “không chỉ được giới hạn trong việc tham dự phụng vụ. Kitô hữu chẳng những được kêu gọi cầu nguyện chung còn cần phải vào phòng riêng của mình để âm thầm cầu cùng Cha của mình (x Mt 6:6); thật vậy, theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ, họ phải cầu nguyện không ngừng (x 1Thes 5:17)” (Ibid., 12). Theo đường lối riêng của mình, Kinh Mân Côi là yếu tố thuộc về cái toàn cảnh khác nhau của việc “không ngừng” cầu nguyện này. Nếu Phụng Vụ, hoạt động của Chúa Kitô và Giáo Hội, là một tác động cứu độ tuyệt hảo nhất, thì Kinh Mân Côi cũng thế, việc cùng với Mẹ Maria “suy niệm” về Chúa Kitô, là việc chiêm niệm bổ ích. Bằng việc đi sâu vào các mầu nhiệm của đời sống Đấng Cứu Chuộc tức là bảo đảm những gì Người đã thực hiện và những gì phụng vụ hiện thực được hòa nhập và làm nên cuộc sống của chúng ta.

Học Hỏi Chúa Kitô Nơi Mẹ Maria

14. Chúa Kitô là vị Tôn Sư tối cao, là đấng mạc khải và là người được mạc khải. Đây không phải là vấn đề học hỏi những gì Người đã dạy dỗ mà là “học hỏi chính Người”. Về vấn đề này chúng ta còn vị sư phụ nào hơn Mẹ Maria đây? Theo quan điểm mạc khải thì Thần Linh là vị thầy nội tâm làm cho chúng ta hiểu biết tất cả sự thật về Chúa Kitô (x Jn 14:26; 15:26; 16:13). Thế nhưng, trong các tạo sinh, không ai biết Chúa Kitô bằng Mẹ Maria; không ai có thể hiến cho chúng ta một kiến thức sâu xa về mầu nhiệm của Người hơn Mẹ Maria.

“Dấu lạ” đầu tiên Chúa Giêsu làm, biến nước lã thành rượu ở tiệc cưới Cana, rõ ràng cho thấy Mẹ Maria dưới hình thức của một bậc thày, khi Mẹ thúc giục những người phục dịch hãy làm theo những gì Chúa Giêsu truyền khiến (x Jn 2:5). Chúng ta có thể cho rằng Mẹ cũng làm như vậy cho các môn đệ sau khi Chúa Thăng Thiên, lúc mà Mẹ hợp với các vị đời chờ Chúa Thánh Thần và nâng đỡ các vị trong cuộc truyền giáo đầu tiên của các vị. Cùng với Mẹ Maria chiêm ngắm các cảnh tượng của Kinh Mân Côi là cách thức học hỏi nơi Mẹ “việc đọc” Chúa Kitô, khám phá ra những bí mật của Người và hiểu biết sứ điệp của Người.

Học đường Maria này lại càng có tác hiệu hơn khi chúng ta thấy rằng Mẹ dạy dỗ bằng việc xin cho chúng ta muôn vàn tặng ân của Chúa Thánh Thần, thậm chí Mẹ hiến cho chúng ta một tấm gương khôn sánh về “cuộc hành trình đức tin” của Mẹ (Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 58). Khi chúng ta chiêm ngắm mỗi mầu nhiệm của cuộc đời Con Mẹ là Mẹ mời gọi chúng ta hãy làm như Mẹ đã làm vào lúc Truyền Tin, ở chỗ, hãy khiêm nhượng nêu lên những câu hỏi làm cho chúng ta sáng tỏ để rồi kết thúc bằng một đức tin tuân phục: “Này tôi là nữ tỳ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lk 1:38).

Nên Giống Chúa Kitô Với Mẹ Maria

15. Linh đạo Kitô Giáo nổi bật ở việc thành phần môn đệ quyết tâm nên giống càng ngày càng trọn vẹn hơn Vị Tôn Sư của mình (x Rm 8:29; Phil 3:10,12). Việc Chúa Thánh Linh được tuôn đổ xuống khi lãnh nhận Phép Rửa đã ghép tín hữu như cành nho với cây nho là Chúa Kitô (x Jn 15:5), và làm cho họ trở thành một chi thể của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô (x 1Cor 12:12; Rm 12:5). Tuy nhiên, mối hiệp nhất nguyên khởi này đòi phải mỗi ngày một đồng hóa hơn, một cuộc đồng hóa càng ngày càng uốn nắn các tác hành của người môn đệ cho hợp với “tinh thần” của Chúa Kitô hơn. “Anh em hãy đối xử với nhau theo tinh thần này của Chúa Giêsu Kitô” (Phil 2:5). Theo lời của Thánh Tông Đồ thì chúng ta được kêu gọi “để mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (x Rm 13:14; Gal 3:27).

Trong cuộc hành trình thiêng liêng của Kinh Mân Côi bằng việc liên lỉ cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa Kitô, lý tưởng cần phải nên giống Người này được thể hiện bằng việc liên kết có thể được diễn tả bằng tình thân hữu. Nhờ đó chúng ta có thể dễ dàng đi vào cuộc sống của Chúa Kitô và thực sự được chia sẻ với những cảm thức sâu xa nhất của Người. Về vấn đề này, Chân Phước Bartolo Longo đã viết: “Giống hệt như hai người bạn trong mối giao hữu với nhau thường có khuynh hướng bắt chước những thói quen như nhau thế nào, thì chúng ta cũng vậy, với thân phận thấp hèn của mình, cũng có thể trở nên giống Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ, và có thể học được nơi những mô phạm tối thượng này một đời sống khiêm hạ, khó nghèo, ẩn thân, nhẫn nại và trọn lành, bằng việc đối thoại thân tình với các vị, bằng việc suy niệm về các mầu nhiệm Mân Côi, cũng như bằng việc sống cùng một sự sống nơi Thánh Thể” (I Quindici Sabati del Santissimo Rosario, 27th ed., Pompei, 1916, 27).

Trong tiến trình nên giống Chúa Kitô bằng Kinh Mân Côi ấy, chúng ta phó mình một cách đặc biệt cho việc chăm sóc từ mẫu của Đức Trinh Nữ. Mẹ, Đấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là chi thể của Giáo Hội, “một chi thể nổi bật và chuyên nhất” (Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 53), đồng thời cũng là “Mẹ của Giáo Hội”. Bởi thế, Mẹ tiếp tục sinh hạ con cái cho Thân Mình mầu nhiệm của Con Mẹ. Người làm điều này bằng việc chuyển cầu của Mẹ, xin ban xuống trên họ tràn đầy Thần Linh vô tận. Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt hảo cho vai trò thân mẫu của Giáo Hội.

Kinh Mân Côi đưa chúng ta một cách kỳ diệu về ở bên cạnh Mẹ Maria khi Mẹ bận coi sóc việc phát triển về nhân bản của Chúa Kitô ở nhà Nazarét. Nhờ đó Mẹ có thể huấn luyện chúng ta và khuôn đúc chúng ta bằng cùng một việc chăm sóc ấy, cho đến khi Chúa Kitô “được hình thành trọn vẹn” nơi chúng ta (x Gal 4:19). Vai trò này của Mẹ Maria, một vai trò hoàn toàn gắn liền với vai trò của Chúa Kitô và thực sự đóng vai phụ cho vai trò của Chúa Kitô, “không thể nào lại làm lu mờ hay suy giảm đi vai trò trung gian chuyên nhất của Chúa Kitô, trái lại, còn cho thấy quyền lực của vai trò ấy” (Ibid., 60). Đây là một nguyên tắc sáng tỏ được Công Đồng Chung Vatican II bày tỏ, một nguyên tắc Tôi đã cảm nhận hết sức mãnh liệt trong đời sống của Tôi và đã đặt nền tảng cho khẩu hiệu làm giáo phẩm của Tôi: Totus Tuus Tất cả của con là của Mẹ (Cf. First Radio Address Urbi et Orbi [17 October 1978]: AAS 70 [1978], 927). Thực sự thì khẩu hiệu này đã được khơi hứng từ giáo huấn của Thánh Louis Marie Grignion Montfort, vị đã cắt nghĩa vai trò của Mẹ Maria trong tiến trình nên giống Chúa Kitô bằng những lời lẽ sau đây: “Việc chúng ta hoàn toàn nên trọn lành là ở chỗ nên giống như, hiệp nhất với và thánh hiến cho Chúa Kitô. Bởi thế, việc tôn sùng tuyệt hảo nhất phải là việc tôn sùng làm cho chúng ta nên giống như, hiệp nhất với và thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô một cách hoàn hảo nhất. Vậy, nếu Mẹ Maria là một trong những tạo sinh giống như Chúa Giêsu Kitô nhất thì trong tất cả mọi việc tôn sùng làm cho linh hồn thánh hiến cho và nên giống như Chúa Kitô đó là việc tôn sùng Mẹ Maria, Mẹ Thánh của Người, và linh hồn càng tận hiến cho Mẹ lại càng được thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô” (Treatise on True Devotion to the Blessed Virgin Mary). Chưa bao giờ thấy cuộc sống của Chúa Giêsu và cuộc đời của Mẹ Maria tỏ ra liên kết với nhau sâu xa như ở nơi Kinh Mân Côi. Mẹ Maria chỉ sống trong Chúa Kitô và cho Chúa Kitô mà thôi!

Cầu Xin Chúa Kitô Với Mẹ Maria

16. Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy trở về cùng Thiên Chúa một cách thiết tha và tin tưởng như chúng ta đã nghe: “Hãy xin các con sẽ được; hãy tìm các con sẽ thấy; hãy gõ các con sẽ được mở cho” (Mt 7:7). Nguồn gốc phát xuất quyền năng từ lời cầu nguyện này chẳng những là sự thiện hảo của Chúa Cha, mà còn là vai trò trung gian của chính Chúa Kitô (x 1Jn 2:1) cùng với hoạt động của Chúa Thánh Thần là Đấng “chuyển cầu cho chúng ta” theo đúng như ý muốn của Thiên Chúa (x Rm 8:26-27). Vì “chúng ta không biết phải cầu nguyện làm sao cho phải” (Rm 8:26), và có những lúc chúng ta không được nhận lời “vì chúng ta xin không đúng” (x Jas 4:2-3).

Để nâng đỡ lời cầu được Chúa Kitô và Thần Linh khơi lên trong lòng của chúng ta, Mẹ Maria đã thực hiện việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ. “Lời cầu của Giáo Hội được bảo dưỡng bằng lời cầu của Mẹ Maria” (Catechism of the Catholic Church, 2679). Nếu Chúa Giêsu, Đấng Trung Gian duy nhất, là Đường Lối cho việc cầu nguyện của chúng ta, thì Mẹ Maria, hình ảnh trung thực tinh tuyền và tỏ tường nhất của Người, tỏ cho chúng ta thấy Đường Lối ấy. “Được bắt đầu bằng việc góp phần đặc biệt của Mẹ Maria cùng với hoạt động của Chúa Thánh Thần, các Giáo Hội đã đặt ra lời nguyện cầu của mình để dâng lên Người Mẹ Thánh của Thiên Chúa, tập trung lời nguyện cầu này nơi con người của Chúa Kitô được thể hiện qua các mầu nhiệm của Người” (Ibid., 2675). Ở tiệc cưới Cana, Phúc Âm rõ ràng cho thấy quyền năng của việc Mẹ Maria chuyển cầu khi Mẹ tỏ bày cho Chúa Giêsu biết các nhu cầu cần thiết của những người khác: “Họ hết mất rượu rồi” (Jn 2:3).

Kinh Mân Côi vừa là việc suy niệm vừa là việc kêu cầu. Lời cầu nguyện thiết tha dâng lên Mẹ Thiên Chúa được căn cứ vào lòng tin tưởng là việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ có thể xin được tất cả những gì từ trái tim Con Mẹ. Mẹ “toàn năng theo ân sủng”, nếu nói theo lời bày tỏ táo bạo này, một lời cần phải hiểu một cách đúng đắn, của Chân Phước Bartolo Longo trong Lời Cầu Khẩn Cùng Đức Mẹ của thánh nhân (Lời cầu khẩn này được viết vào năm 1883 để đáp lại lời kêu gọi của ĐGH Lêô XIII trong Thông Điệp đầu tiên về Kinh Mân Côi, lời cầu khẩn cho tất cả mọi người Công Giáo tỏ ra quyết tâm chiến đấu với những tệ nạn xã hội. Lời cầu khẩn này được long trọng đọc lại mỗi năm hai lần, một vào Tháng Năm và một vào Tháng Mười). Đây là niềm xác tín được khơi nguồn từ Phúc Âm đã càng ngày càng phát triển vững mạnh hơn nơi cảm nghiệm của dân Kitô Giáo. Đại thi hào Dante đã diễn tả niềm xác tín này một cách lạ lùng bằng những giòng thơ được Thánh Bênađô hát lên rằng: “Ôi Tôn Nữ, Mẹ hết sức cao cả và quyền năng, đến nỗi ai muốn được ân sủng mà lại không hướng về Mẹ thì ước muốn của họ chẳng khác gì muốn bay mà không có cánh” (Divina Commedia, Paradiso XXXIII, 13-15). Khi chúng ta dùng Kinh Mân Côi nài xin Mẹ Maria, cung thánh của Chúa Thánh Thần (x Lk 1:35), Mẹ liền chuyển cầu cho chúng ta trước Chúa Cha là Đấng làm cho Mẹ đầy ân sủng, cũng như trước Chúa Con là Đấng đã được sinh ra từ lòng Mẹ, bằng cách Mẹ cầu nguyện với chúng ta và cho chúng ta.

Loan Truyền Chúa Kitô Với Mẹ Maria

17. Kinh Mân Côi cũng là một đường lối loan báo và tăng thêm kiến thức giúp cho mầu nhiệm của Chúa Kitô được lập đi lập lại ở những trình độ cảm nghiệm Kitô hữu khác nhau. Hình thức của kinh này là hình thức của một sự bày tỏ của nguyện cầu và chiêm ngắm có khả năng hình thành Kitô hữu theo lòng mong ước của Chúa Kitô. Khi lần hạt Mân Côi được kèm theo với tất cả mọi yếu tố cần thiết cho việc suy niệm hiệu nghiệm, nhất là trong việc cử hành chung nơi các giáo xứ và đền thánh, thì việc lần hạt Mân Côi này có thể trở thành một cơ hội dạy giáo lý đáng kể mà các vị chủ chiên cần phải lợi dụng. Cũng qua đường lối này, Đức Mẹ Mân Côi cũng tiếp tục công việc loan báo Chúa Kitô của Mẹ. Lịch sử của Kinh Mân Côi chứng tỏ cho thấy kinh nguyện này đã được các tu sĩ Dòng Đaminh đặc biệt sử dụng ra sao vào thời kỳ Giáo Hội gặp khó khăn vì tình trạng tràn lan những lạc thuyết. Ngày nay chúng ta đang đối diện với những thử thách mới. Tại sao chúng ta không sử dụng Kinh Mân Côi một lần nữa, với cùng một đức tin như những người đã ra đi trước chúng ta? Kinh Mân Côi vẫn giữ được tất cả mãnh lực của mình và tiếp tục là một mạch nguồn mục vụ đáng giá cho hết mọi truyền bá phúc âm nhân tốt lành.


Chương Hai

Những Mầu Nhiệm Của Chúa Kitô
– Những Mầu Nhiệm Của Mẹ Người

 

Kinh Mân Côi, “Một Tổng Tóm Phúc Âm”

18. Đường lối duy nhất để tiến đến việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô là ở chỗ lắng nghe trong Thần Linh tiếng của Chúa Cha, vì “không ai biết Con ngoài trừ Cha” (Mt 11:27). Ở miền Caesarea Philippi, Chúa Giêsu đã đáp lại lời tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô bằng việc xác định cho thấy nguồn gốc của cái trực giác rõ ràng về căn tính của Người ấy là: “Không phải xác thịt và máu mủ đã tỏ cho con biết điều này, mà là Cha Thày ở trên trời” (Mt 16:17). Vậy, điều cần là làm sao có thể nhận được mạc khải từ trên cao. Để nhận được mạc khải này, không thể nào thiếu được việc chăm chú lắng nghe: “Chỉ có việc cảm nghiệm được sự thinh lặng và nguyện cầu mới tạo nên một hoàn cảnh thích thuận cho việc tăng thêm và phát triển một thứ kiến thức xác đáng, trung thực và nhất quán về mầu nhiệm ấy mà thôi” (John Paul II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte [6 January 2001], 20: AAS 93 [2001], 279).

Kinh Mân Côi là một trong những đường lối truyền thống của việc Kitô hữu cầu nguyện hướng đến việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã diễn tả điều này qua những lời sau đây: “Là lời cầu nguyện của Phúc Âm, đặt trọng tâm vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, Kinh Mân Côi là kinh nguyện rõ ràng có một chiều hướng Kitô học. Thật vậy, yếu tố đặc thù nhất của kinh nguyện này, yếu tố của một kinh cầu, như việc liên tục đọc các Kinh Kính Mừng, tự mình đã trở thành một lời liên lỉ chúc tụng Chúa Kitô, Đấng là đối tượng tối hậu của lời Thiên Thần loan báo cũng như của lời Thân Mẫu Thánh Gioan Tẩy Giả chào mừng: ‘Phúc thay quả phúc của lòng Người’ (Lk 1:42). Chúng ta có thể đi xa hơn nữa khi nói rằng việc liên tục đọc các Kinh Kính Mừng đã tạo nên một tấm vải thêu được đan kết với việc chiêm niệm các mầu nhiệm. Chúa Giêsu mà mỗi một Kinh Kính Mừng nhắc lại cũng là Chúa Giêsu được các mầu nhiệm liên tục theo nhau bấy giờ cho chúng ta thấy là Con Thiên Chúa, là Con của Vị Trinh Nữ” (Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 46: AAS 6 [1974], 155).

Một Đề Nghị Thêm Vào Mẫu Kinh Truyền Thống

19. Trong nhiều mầu nhiệm về cuộc đời của Chúa Kitô chỉ có một ít được thấy nơi Kinh Mân Côi theo thể thức đã được thiết lập một cách chung chung đã được Giáo Hội đóng chấm chuẩn nhận. Việc chọn lựa những mầu nhiệm ấy được ấn định ngay từ khi bắt đầu có kinh nguyện này, một kinh nguyện dựa vào con số 150, 150 Thánh Vịnh trong Sách Thánh Vịnh.

Tuy nhiên, Tôi tin rằng, để lột tả hết chiều sâu của Kitô học nơi Kinh Mân Côi, thì việc thêm vào kiểu mẫu kinh nguyện truyền thống này cũng là việc thích hợp, song tùy tự do sử dụng của cá nhân và cộng đồng, một sự thêm thắt nới rộng hơn Kinh Mân Côi với các mầu nhiệm về thừa tác vụ công khai của Chúa Kitô giữa khoảng Người Chịu Phép Rửa và Cuộc Khổ Nạn của Người. Trong tiến trình của những mầu nhiệm này chúng ta chiêm ngưỡng những khía cạnh quan trọng của con người Chúa Kitô như là một mạc khải tối hậu của Thiên Chúa. Được Cha công bố là Người Con yêu dấu ở biến cố Phép Rửa nơi Sông Dược-Đăng, Chúa Kitô đóng vai trò là Đấng loan báo Nước Thiên Chúa đã đến, làm chứng cho thực tại này bằng những việc làm của Người, và công bố những đòi hỏi của thực tại ấy. Chính trong những năm thi hành thừa tác vụ công khai của Người mà mầu nhiệm về Chúa Kitô hiện lên hết sức rõ ràng như là một mầu nhiệm ánh sáng: “Trong khi Thày còn ở thế gian, Thày là ánh sáng thế gian” (Jn 9:5).

Bởi thế, để cho Kinh Mân Côi trở thành “một tổng lược Phúc Âm” trọn vẹn hơn nữa, cần phải suy niệm thêm những lúc đặc biệt quan trọng nơi việc thi hành thừa tác vụ công khai của Chúa Kitô (những mầu nhiệm ánh sáng), sau khi suy niệm biến cố Nhập Thể và cuộc đời ẩn dật của Người (những mầu nhiệm vui mừng), và trước khi chú tâm đến những đau thương nơi Cuộc Khổ Nạn của Người (những mầu nhiệm đau thương) cùng với việc Phục Sinh vinh thắng của Người (những mầu nhiệm vinh hiển). Việc thêm những mầu nhiệm mới này, một việc thêm thắt không gây tổn hại cho một khía cạnh chính yếu nào nơi thể thức truyền thống của kinh nguyện này, nhằm mục đích là để hiến cho kinh nguyện này một sự sống mới, cũng như để làm bừng lên một lần nữa sự chú trọng vào vị trí của Kinh Mân Côi nơi linh đạo Kitô Giáo, một vị trí như cửa ngõ thực sự dẫn vào vực thẳm của Trái Tim Chúa Kitô, một đại dương đầy vui mừng và ánh sáng, đầy khổ đau và vinh hiển.

Những Mầu Nhiệm Vui Mừng

20. Năm chục đầu tiên, “những mầu nhiệm vui mừng”, được đánh dấu bằng niềm vui mừng phát tỏa ra từ biến cố Nhập Thể. Điều này rõ ràng ngay ở mầu nhiệm thứ nhất, mầu nhiệm Truyền Tin, với lời Tổng Thần Gabiên chào Trinh Nữ Nazarét được liên kết với lời mời gọi mừng vui cứu độ: “Hỡi Maria, hãy vui lên”. Toàn thể lịch sử cứu độ, ở một nghĩa nào đó, toàn thể lịch sử thế giới nữa, đã hướng về lời chào này. Nếu dự án của Chúa Cha là kết hợp tất cả mọi sự lại trong Chúa Kitô (x Eph 1:10), thì toàn thể vũ trụ, một cách nào đó, đã được ân sủng thần linh này chạm đến, một ân sủng khiến Chúa Cha nhìn đến Mẹ Maria và làm cho Mẹ trở thành Mẹ của Con Ngài. Về phần mình, toàn thể loài người đã được gồm tóm trong lời xin vâng Mẹ đã tỏ ra để sẵn sàng tuân theo ý muốn của Thiên Chúa.

Tác động nhảy mừng là điều then chốt trong việc Mẹ Maria gặp gỡ bà Isave, biến cố mà tiếng vang của lời Mẹ Maria chào và sự hiện diện của Chúa Kitô trong lòng Mẹ đã khiến cho Gioan “nhảy mừng” (x Lk 1:44). Niềm vui mừng cũng dâng lên cả ở cảnh Bêlem, khi những vị thiên thần hát lên và loan báo cho các mục đồng “một tin hết sức vui mừng” (Lk 2:10) về việc giáng sinh của Con Trẻ thần linh là Đấng Cứu Thế.

Hai mầu nhiệm cuối cùng của 5 chục đầu này, trong khi vẫn có một bầu khí vui mừng, đã cho thấy màn thảm kịch sẽ xẩy ra. Biến cố Dâng Con vào Đền Thờ chẳng những cho thấy niềm vui của việc thánh hiến Con Trẻ và nỗi ngất ngây của ông già Simêon; nó còn ghi lại lời tiên báo Chúa Kitô sẽ là “một dấu hiệu phản khắc” cho dân Yến-Duyên và một lưỡi gươm sẽ xuyên thâu qua lòng Mẹ của Người (x Lk 2:34-35). Niềm vui lẫn lộn với thảm thương đánh dấu mầu nhiệm thứ năm, mầu nhiệm tìm thấy con trẻ Giêsu 12 tuổi trong Đền Thờ. Ở đây, Người cho thấy mức độ khôn ngoan thần linh của Người khi Người nghe và đặt những câu hỏi, đã chứng tỏ Người thực sự là Đấng “dạy bảo”. Mạc khải về mầu nhiệm Người là Con hết sức chú trọng đến việc Người thực hiện công việc của Cha Người đã bộc lộ cho thấy bản chất sâu xa của Phúc Âm, ở chỗ, cho dù là những liên hệ loài người thân mật nhất cũng phải chịu thử thách bởi những đòi hỏi tối hậu của Nước Thiên Chúa. Mẹ Maria và Thánh Giuse, sợ hãi và lo âu, “đã không hiểu” những lời Người nói (Lk 2:50).

Bởi vậy, việc suy niệm những mầu nhiệm “vui mừng” là việc đi vào những căn nguyên tối hậu và ý nghĩa sâu xa nhất của niềm vui Kitô Giáo. Việc suy niệm này chú trọng đến thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể cũng như đến bóng tối báo hiệu mầu nhiệm của Cuộc Khổ Nạn cứu độ. Mẹ Maria dẫn chúng ta đến việc khám phá ra cái bí mật của niềm vui Kitô Giáo, khi Mẹ nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng Kitô giáo, trước hết và trên hết, là euangelion, là “tin mừng”, một tin mừng có cốt lõi cũng như có tất cả nội dung của mình là con người Chúa Giêsu Kitô, Lời hóa thành nhục thể, Đấng Cứu Thế duy nhất.

Những Mầu Nhiệm Ánh Sáng

21. Đi từ thời thơ ấu và cuộc sống ẩn dật của Chúa Giêsu ở Nazarét đến cuộc sống công khai của Người, việc chiêm ngưỡng của chúng ta mang chúng ta tới những mầu nhiệm được đặc biệt gọi là “những mầu nhiệm ánh sáng”. Đã hẳn toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô là mầu nhiệm ánh sáng. Người là “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12). Tuy nhiên, sự thật này được tỏ hiện đặc biệt vào những năm công khai của Người, thời gian Người loan báo Phúc Âm về Nước Thiên Chúa. Trong việc đề ra cho cộng đồng Kitô hữu năm thời điểm quan trọng – những mầu nhiệm “ánh sáng” – thuộc đoạn đời này của Chúa Kitô, Tôi nghĩ rằng những mầu nhiệm được chọn sau đây sẽ thích hợp: (1) Người chịu Phép Rửa ở sông Dược-Đăng, (2) Người tỏ mình ở tiệc cưới Cana, (3) Người loan báo Nước Thiên Chúa với lời kêu gọi hoán cải đời sống, (4) Người Biến Hình và (5) Người thiết lập Thánh Thể như thể hiện Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người một cách bí tích.

Mỗi mầu nhiệm này là một mạc khải về Nước Thiên Chúa tỏ hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu bấy giờ. Trước hết là việc Người chịu Phép Rửa ở sông Dược-Đăng là một mầu nhiệm ánh sáng. Nơi đây, khi Chúa Giêsu bước xuống nước, Đấng vô tội đã trở thành “tội lỗi” vì chúng ta (x 2Cor 5:21), các tầng trời mở ra và có tiếng Chúa Cha phán Người là Con yêu dấu (x Mt 3:17 và các đoạn Phúc Âm Nhất Lãm tương đương), trong lúc Thần Linh hiện xuống trên Người để ủy thác cho Người sứ vụ Người cần phải thực hiện. Mầu nhiệm ánh sáng khác là dấu lạ đầu tiên được thực hiện ở Cana (x Jn 2:1-12), lúc Người biến nước lã thành rượu và hướng lòng trí của các môn đệ về đức tin, nhờ việc can thiệp của Mẹ Maria, người tín hữu tiên khởi. Mầu nhiệm ánh sáng nữa là việc Chúa Giêsu giảng dạy để loan báo Nước Thiên Chúa đến, để kêu gọi ăn năn hoán cải (x Mk 1:15), và thứ tha tội lỗi của tất cả những ai đến gần Người với lòng tin tưởng khiêm hạ (x Mk 2:3-13; Lk 7:47-48): Việc khai mào của thừa tác vụ tình thương này Người vẫn tiếp tục thi hành cho đến tận thế, nhất là qua Bí Tích Hòa Giải được Người ủy thác cho Giáo Hội của Người (x Jn 20:22-23). Mầu nhiệm ánh sáng trên hết là Biến Cố Biến Hình vốn được truyền thống tin rằng đã xẩy ra trên Nuí Tabor. Vinh quang của Thần Tính được chiếu tỏa nơi dung nhan của Chúa Kitô khi Chúa Cha truyền cho các vị Tông Đồ đang bàng hoàng bấy giờ là “hãy vâng nghe lời Người” (x Lk 9:35 và các đoạn Phúc Âm Nhất Lãm tương đương) và hãy sẵn sàng cùng Người trải qua cơn quằn quại Khổ Nạn, để cùng Người tiến đến niềm vui Phục Sinh và một cuộc sống được Thánh Linh biến đổi. Mầu nhiệm ánh sáng cuối cùng là việc Chúa Kitô thiết lập bí tích Thánh Thể, để Người hiến dâng mình máu của Người như lương thực dưới hình bánh và hình rượu, cũng như để Người chứng thực tình Người yêu nhân loại “cho đến cùng” (Jn 13:1), thành phần Người đã tự hy hiến mình để cứu độ họ.

Nơi những mầu nhiệm này, ngoại trừ phép lạ ở Cana, thì việc Mẹ Maria hiện diện đều xẩy ra ở trong hậu trường. Các Phúc Âm chỉ đề cập hết sức ngắn ngủi đến việc Mẹ thỉnh thoảng hiện diện ở một lúc nào đó trong thời gian rao giảng của Chúa Giêsu (x Mk 3:31-5; Jn 2:12), và Phúc Âm không nói gì tới việc Mẹ có mặt ở Bữa Tiệc Ly cũng như trong việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể hay chăng. Tuy nhiên, vai trò Mẹ đóng ở tiệc cưới Cana, một cách nào đó, đã luôn luôn theo Chúa Kitô trong suốt thời gian Người thực hiện thừa tác vụ của Người. Điều Chúa Cha muốn trực tiếp mạc khải cho thấy nơi biến cố Phép Rửa ở sông Dược-Đăng, cũng là điều được Thánh Gioan Tẩy Giả làm âm vang, đã xuất hiện trên môi miệng của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana, và điều ấy đã trở thành lời khuyên dụ từ mẫu cao cả được Mẹ Maria dùng để nhắn nhủ Giáo Hội qua mọi thời đại, đó là lời “hãy làm những gì Người bảo” (Jn 2:5). Lời khuyên dụ này là một lời dẫn nhập xứng hợp với những lời nói cùng những dấu lạ Chúa Kitô tỏ ra trong thời gian công khai thi hành thừa tác vụ của Người và là lời đặt nền tảng Thánh Mẫu cho tất cả “những mầu nhiệm ánh sáng”.

Những Mầu Nhiệm Thương Đau

22. Các Phúc Âm đều nhấn mạnh đến tầm mức trọng đại nơi những mầu nhiệm đau thương của Chúa Kitô. Ngay từ ban đầu, lòng đạo đức của Kitô hữu, nhất là lòng tôn sùng Đường Thánh Giá trong Mùa Chay, đã chú trọng đến những giây phút đặc biệt của Cuộc Khổ Nạn, với nhận thức rằng tuyệt đỉnh của mạc khải tình yêu Thiên Chúa và nguồn mạch cứu độ của chúng ta là ở nơi Cuộc Khổ Nạn này. Kinh Mân Côi chất chứa một số giây phút Khổ Nạn ấy, kêu gọi tín hữu hãy chiêm ngưỡng những giây phút này trong lòng mình và hãy sống lại những giây phút ấy. Thứ tự của những ngắm được bắt đầu ở vườn Cây Dầu, nơi Chúa Kitô đã trải qua giây phút hết sức sầu khổ trước ý muốn của Chúa Cha là những gì nỗi yếu hèn của xác thịt có khuynh hướng chống lại. Ở nơi đây Chúa Giêsu đã đụng độ với tất cả mọi cám dỗ và đã đương đầu với tất cả mọi tội lỗi của nhân loại để có thể thưa cùng Cha: “Xin đừng theo ý Con nhưng xin cho ý Cha được thể hiện” (Lk 22:42 và các đoạn Phúc Âm Nhất Lãm tương đương). Tiếng “Vâng” này của Chúa Kitô đảo lộn tiếng “Không” của những vị nguyên phụ mẫu của chúng ta trong Vườn Địa Đường. Và cái giá phải trả cho việc trung thành với ý muốn của Cha đã được sáng tỏ ở những mầu nhiệm sau đó; ở việc Người bị đánh đòn, bị đội mạo gai, vác Thập Giá và tử nạn trên Thập Giá, Chúa Kitô đã bị rơi vào một tình trạng khổ nhục nhất: Ecce homo! Đấy là Con Người!

Tình trạng khổ nhục này cho thấy chẳng những tình yêu của Thiên Chúa mà còn cả ý nghĩa của chính con người nữa.

Ecce homo: ý nghĩa, nguồn gốc và tầm mức thành toàn của con người là ở nơi Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa đã vì yêu hạ mình “cho đến chết, chết trên thập giá” (Phil 2:8). Những mầu nhiệm đau thương giúp cho tín hữu sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, giúp cho họ đứng dưới chân Cây Thập Giá bên cạnh Mẹ Maria, giúp cho họ cùng với Mẹ tiến vào vực thẳm của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người cũng như giúp cho họ cảm nghiệm được tất cả quyền năng ban sự sống của tình yêu này.

Những Mầu Nhiệm Vinh Hiển

23. “Việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô không thể ngưng lại nơi hình ảnh của Đấng Tử Giá. Người là Đấng Phục Sinh!” (John Paul II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte [6 January 2001], 28: AAS 93 [2001], 284). Kinh Mân Côi bao giờ cũng cho thấy cái ý thức được phát xuất từ đức tin này và mời gọi tín hữu hãy nhìn xuyên qua cái tối tăm của Cuộc Khổ Nạn để hướng về vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên. Khi chiêm ngưỡng Đấng Phục Sinh, Kitô hữu tái nhận thức được những lý do cho niềm tin của họ (x 1Cor 15:14) và sống lại niềm vui chẳng những của những ai được chứng kiến thấy Chúa Kitô hiện ra, như các vị Tông Đồ, như Mai Đệ Liên và các môn đệ trên đường về Emmau, mà còn là niềm vui của Mẹ Maria nữa, vị chắc chắn phải tràn đầy những cảm nghiệm như vậy về sự sống mới nơi Người Con vinh hiển của Mẹ. Nơi biến cố Thăng Thiên, Chúa Kitô được nâng lên trong vinh quang bên hữu Chúa Cha, bản thân Mẹ Maria cũng được nâng lên với cùng một hiển vinh ở biến cố Mông Triệu, được hoan hưởng trước, bằng một đặc ân độc nhất vô nhị, cái thân phận vốn giành cho tất cả những người công chính khi phục sinh từ trong kẻ chết. Được đội triều thiên trong vinh quang, hình ảnh Mẹ ở mầu nhiệm cuối cùng, Mẹ Maria chiếu tỏa rạng ngời như Vị Nữ Vương của các Thần Trời và của các Thánh Nhân, một tiên hưởng và là một hiện thực tối hậu cho tình trạng cánh chung của Giáo Hội.

Ở tâm điểm của việc tuần tự cho thấy vinh hiển của Người Con và Người Mẹ này, Kinh Mân Côi nêu lên trước mắt chúng ta mầu nhiệm vinh hiển thứ ba, mầu nhiệm Hiện Xuống, một mầu nhiệm cho thấy gương mặt của Giáo Hội như là một gia đình qui tụ nhau lại với Mẹ Maria, một gia đình sinh động bởi Vị Thần Linh được tuôn đổ xuống dồi dào và sẵn sàng thi hành sứ vụ truyền bá phúc âm hóa. Việc chiêm ngắm cảnh tượng này, cũng như việc chiêm ngắm các mầu nhiệm vinh hiển khác, phải dẫn tín hữu đến việc cảm nhận sâu xa hơn về cuộc sống mới của họ trong Chúa Kitô, một cuộc sống ở trong lòng Giáo Hội, một cuộc sống được “tiêu biểu” thực sự nơi cảnh tượng của chính biến cố Hiện Xuống. Những mầu nhiệm vinh hiển như thế sẽ khiến tín hữu hy vọng đạt tới mục đích cánh chung hơn nữa, một mục đích mà cuộc hành trình của họ như là phần tử của Dân Chúa đang lữ hành trong lịch sử phải hướng về. Niềm hy vọng này phải thôi thúc họ can đảm làm chứng cho “tin mừng” là những gì mang lại ý nghĩa cho cả cuộc sống của họ.

Từ ‘Các Mầu Nhiệm’ Đến ‘Mầu Nhiệm’: Con Đường Thánh Mẫu

24. Những luân chuyển của việc suy niệm được phác họa nơi Kinh Mân Côi không thể nào hết được, nhưng chúng thực sự mang lại cho tâm trí những gì là thiết yếu và chúng làm bừng lên nơi linh hồn một nỗi khát khao nhận biết Chúa Kitô một cách liên tục được nuôi dưỡng bởi nguyên mạch nguồn Phúc Âm. Hết mọi biến cố riêng biệt trong cuộc đời của Chúa Kitô, như được các Thánh Ký thuật lại, đều phản chiếu một Mầu Nhiệm vượt trên tất cả mọi hiểu biết (x Eph 3:19), đó là Mầu Nhiệm Lời đã hóa thành nhục thể, Đấng được “tất cả tầm vóc viên trọn của Thiên Chúa ngự trị cách hữu hình” (Col 2:9). Chính vì lý do này mà Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã nhấn mạnh đến các mầu nhiệm của Chúa Kitô, khi cho thấy rằng “hết mọi sự nơi đời sống của Chúa Giêsu đều là dấu chỉ cho Mầu Nhiệm của Người” (No. 515). Việc Giáo Hội “thả lưới ở chỗ nước sâu” trong ngàn năm thứ ba được quyết định bởi khả năng của Kitô hữu trong việc tiến đến “tầm mức hiểu biết trọn vẹn mầu nhiệm của Thiên Chúa là Chúa Kitô, nơi Người chất chứa tất cả mọi kho tàng khôn ngoan và kiến thức” (Col 2:2-3). Bức Thư gửi tín hữu Êphêsô đã chân thành cầu chúc cho tất cả những ai đã lãnh nhận phép rửa là: “Chớ gì Chúa Kitô ngự trong lòng anh em bằng đức tin, để anh em, khi đâm rễ sâu trong đức ái, có được khả năng…. nhận biết tình yêu của Chúa Kitô vượt trên mọi kiến thức, nhờ đó anh em được tràn đầy tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (3:17-19).

Đó là đường lối mô phạm của Vị Trinh Nữ Nazarét, một người phụ nữ của lòng tin, của thinh lặng, của việc chuyên chú lắng nghe. Đó cũng là đường lối tôn sùng Thánh Mẫu được tác động bởi việc ý thức về mối liên kết bất khả phân ly giữa Chúa Kitô và Mẹ Thánh Người, ở chỗ, các mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng là các mầu nhiệm của Mẹ Người một cách nào đó, ngay cả trường hợp những mầu nhiệm ấy không trực tiếp liên quan đến Mẹ, vì Mẹ sống bởi Người và nhờ Người. Bằng việc đọc lên những lời của Thiên Thần Gabiên và của bà Thánh Isave trong Kinh Kính Mừng, chúng ta cảm thấy mình liên lỉ được thúc đẩy tìm kiếm lại nơi Mẹ Maria, nơi đôi cánh tay của Mẹ, cũng như nơi trái tim của Mẹ, “quả phúc của lòng Mẹ” (x Lk 1:42).

Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Mầu Nhiệm Con Người

25. Trong chứng từ năm 1978, như Tôi đã đề cập đến trước đây, năm Tôi bộc lộ cho biết Kinh Mân Côi là kinh nguyện Tôi yêu chuộng, Tôi đã có một ý nghĩ nay xin được nhắc lại ở đây. Bấy giờ Tôi đã nói rằng “Kinh Mân Côi đơn sơ này làm nên nhịp sống của con người” (Angelus Message of 29 October 1978 : Insegnamenti, I [1978], 76).

Theo ý nghĩa của những gì đã được nói đến về các mầu nhiệm của Chúa Kitô thì cũng chẳng khó khăn gì khi đi sâu vào tầm quan trọng về nhân loại học này của Kinh Mân Côi, một kinh nguyện rất sâu xa hơn dự tưởng ban đầu nhiều. Người nào chiêm ngưỡng Chúa Kitô qua các đoạn đời của Người không thể nào không nhận thấy nơi Người sự thật về con người. Đây là một xác tín cả thể của Công Đồng Chung Vaticanô II mà Tôi rất hay bàn đến trong các giáo huấn của mình kể từ bức Thông Điệp Redemptor Hominis Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần: “Chỉ trong mầu nhiệm Lời nhập thể mà mầu nhiệm về con người mới được sáng tỏ” (Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 22). Kinh Mân Côi giúp vào việc mở đường dẫn đến ánh sáng này. Theo bước chân của Chúa Kitô, nơi Người con đường của con người được “qui hướng” (Cf. Saint Irenaeus of Lyons, Adversus Haereses, III, 18, 1: PG 7, 932), được thể hiện và được cứu chuộc, tín hữu tiến đến chỗ được giáp diện với hình ảnh của một con người thực sự. Khi chiêm ngưỡng Chúa Kitô giáng sinh, họ biết được tính cách linh thánh của sự sống; nhìn vào gia đình Nazarét, họ biết được sự thật nguyên thủy của đời sống gia đình theo dự án của Thiên Chúa; lắng nghe Vị Sư Phụ nơi những mầu nhiệm Người công khai thi hành thừa tác vụ của Người, họ thấy được ánh sáng dẫn họ vào Vương Quốc của Thiên Chúa; và theo Người trên con đường lên Canvê, họ biết được ý nghĩa của đau khổ cứu độ. Sau hết, khi chiêm ngưỡng Chúa Kitô và Thánh Mẫu của Người trong vinh quang, họ thấy được mục đích mà mỗi người trong chúng ta được kêu gọi tiến đến, nếu chúng ta để cho Thánh Linh chữa lành và biến đổi. Có thể nói rằng mỗi một mầu nhiệm Mân Côi được suy niệm cẩn thận sẽ làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người.

Đồng thời, tất cả mọi rắc rối, lo âu, vất vả và nỗ lực xẩy ra làm nên đời sống của chúng ta cũng có thể được dễ dàng dẫn đến với cuộc gặp gỡ với nhân tính thánh hảo này của Đấng Cứu Chuộc. “Hãy phó mặc nỗi nhọc nhằn của anh em cho Chúa, Ngài sẽ nâng đỡ anh em” (Ps 55:23). Việc cầu Kinh Mân Côi là việc trao phó những gánh nặng của chúng ta cho trái tim nhân hậu của Chúa Kitô và Mẹ Người. Hai mươi lăm năm sau, khi nghĩ lại những khó khăn cũng là những gì làm nên thừa tác vụ Phêrô Tôi đã thực hiện, Tôi cảm thấy cần phải lập lại một lần nữa, như một lời thiết tha mời gọi hết mọi người hãy cảm nhận nơi bản thân mình, đó là: Kinh Mân Côi thực sự “làm nên nhịp sống của con người”, khi làm cho nhịp sống này hòa hợp với “nhịp” sống của Thiên Chúa trong mối hiệp thông hoan lạc của Thiên Chúa Ba Ngôi, đích điểm và là ước vọng sâu xa nhất của cuộc đời chúng ta.

 

tt