·
của con người, đă sống hoàn toàn theo
những giá trị của Phúc Âm, giờ đây không c̣n
nữa. Ngày nay, chúng ta phải can đảm đương
đầu với một t́nh trạng đang càng ngày càng trở
nên đa tạp và gay go theo chiều hướng ‘toàn
cầu hóa’, cũng như theo chiều hướng của
một t́nh trạng hỗn hợp bất ổn mới
xẩy ra nơi các dân tộc và văn hóa. Từ nhiều
năm nay, Tôi vẫn thường hay lập đi lập
lại những lần kêu gọi hăy thực hiện việc tân truyền bá phúc âm hóa.
Giờ đây Tôi lại kêu gọi điều này một
lần nữa, nhất là muốn chú trọng đến
việc chúng ta phải làm bừng lên lại trong chúng ta ḷng
hăng hái của những thuở ban đầu, cũng như
phải làm sao cho ḿnh đầy nhiệt t́nh rao giảng của
các tông đồ sau Ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúng ta
phải phục hồi trong chúng ta niềm xác tín nóng bỏng
của Thánh Phaolô, vị đă kêu lên rằng: ‘Khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Phúc Âm’ (1Cor
“Ḷng hăng say này
sẽ không ngừng khơi lên nơi Giáo Hội một thứ
cảm quan mới về việc truyền giáo, một
việc truyền giáo không thể chỉ có nguyên một nhóm
‘chuyên viên’ làm, mà phải bao gồm cả trách nhiệm của
tất cả mọi phần tử thuộc Dân Chúa
nữa. Những ai được giao tiếp thực
sự với Chúa Kitô không thể cầm giữ Người
cho bản thân ḿnh, song họ phải loan truyền về Người.
Cần phải thực hiện một cuộc quảng bá
mới trong việc làm tông đồ, một cuộc
quảng bá được thể hiện như là việc
dấn thân hằng ngày của các cộng đồng cũng
như của các nhóm hội Kitô hữu. Tuy nhiên, việc này
phải được thực hiện bằng sự tôn
trọng các đường lối khác biệt của con
người khác nhau, và phải được thực
hiện có tính cách nhậy cảm về vấn đề đa
văn hóa là những ǵ sứ điệp Kitô giáo cần
phải được gieo trồng, ở chỗ, không
loại bỏ các giá trị riêng của mỗi một dân tộc
mà là thanh tẩy và kiện toàn những giá trị ấy” (đoạn
40.2).
“Trong Ngàn Năm Thứ
Ba, Kitô Giáo sẽ phải đáp ứng một cách hiệu
nghiệm hơn bao giờ hết nhu cầu hội nhập văn hóa này. Kitô Giáo,
trong khi hoàn toàn trung thực với chính ḿnh, kiên trung với
những ǵ được Phúc Âm và truyền thống của
Giáo Hội loan truyền, cũng phản ảnh những
nét mặt văn hóa và dân tộc khác nhau là những ǵ Kitô
Giáo được đón nhận và bắt rễ...” (đoạn
40.3).
Qua đoạn tông thư 40 trên đây, Vị Đại
Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải “Bắt Đầu
Lại Từ Chúa Kitô” bằng việc truyền bá Lời
Chúa, ở chỗ, phải làm sao lấy lại được
ḷng nhiệt thành của các Tông Đồ trong Ngày Chúa Thánh
Thần Hiện Xuống xưa để có thể
thực hiện một cuộc tái truyền bá phúc âm hóa
trong một thời đại đang theo chiều hướng
toàn cầu hóa và cho một thế giới đang ở
trong một t́nh trạng hỗn hợp bất ổn
về văn hóa, một cuộc truyền bá phúc âm hóa bởi
thế phải hết sức chú trọng đến nhu
cầu hội nhập văn hóa.
1.
PHẦN THỨ BỐN
CỦA BỨC TÔNG THƯ MỞ
MÀN CHO MỘT TÂN THIÊN NIÊN KỶ KÊU GỌI TRUYỀN ĐẠO
THẾ NÀO?
Tới phần thứ bốn cũng là phần
cuối cùng của Bức Tông Thư “Mở Màn Cho Một Tân
Thiên Niên Kỷ” của ḿnh,
để Kitô hữu ở “tất
cả mọi Giáo Hội riêng”, mục tiêu chính của
bản văn kiện, có thể thực sự trở thành
“một ngôn sứ tương
lai”, theo Đức Thánh Cha, “những
chứng nhân t́nh yêu”này cần phải sống “linh đạo hiệp thông” (đoạn
43-45) theo “các ơn gọi khác
biệt” (đoạn 46-47) của ḿnh, phải “tham gia việc đại
kết” (đoạn 48), “thắt
kết mọi sự vào đức ái”(đoạn 49-50)
nhất là nơi “những
thách đố ngày nay” (đoạn 51-52), được
tỏ ra bằng “một
dấu hiệu cụ thể” (đoạn 53), sau
hết phải biết “đối
thoại và truyền giáo” (đoạn 54-56).
Trong đoạn chuyển ư (42) chủ yếu cho
cả phần bốn này của bức tông thư, Đức
Thánh Cha đă nhấn mạnh đến đức bác ái, một
yếu tố chẳng những chứng tỏ cho thấy
chính yếu tính của mầu nhiệm Giáo Hội, mà c̣n là một yếu
tố làm cho Giáo Hội thực sự trở thành một bí
tích hiệp thông nữa.
·
“’Nếu các con yêu thương nhau th́ tất
cả mọi người căn cứ vào điều
ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày’
(Jn 13:15). Nếu chúng ta thực sự chiêm ngưỡng dung
nhan Chúa Kitô, anh chị em thân mến, th́ việc chúng ta
hoạch định chương tŕnh mục vụ
phải được chi phối bởi ‘giới răn mới’
mà Người đă ban cho chúng ta: ‘Các con hăy yêu thương
nhau như Thày đă yêu thương các con’ (Jn 13:34)” (đoạn
42.1).
“Đó là một lănh
vực quan trọng khác cần phải được Giáo
Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng chú trọng và
hoạch định: một
lănh vực hiệp thông (koinonia) là hiện thân và cho
thấy chính yếu tính của mầu nhiệm Giáo Hội.
Hiệp thông là hoa trái và biểu lộ cho thấy mối t́nh
yêu xuất phát từ tấm ḷng của Cha Hằng Hữu
và được tuôn đổ trên chúng ta nhờ Thần
Linh Chúa Giêsu ban cho chúng ta’ (Rm 5:5), để làm cho tất
cả chúng ta được ‘đồng tâm nhất trí’
(Acts 4:32). Chính ở tại việc xây đắp mối
hiệp thông yêu thương này mà Giáo Hội mới
hiện hữu như là một ‘bí tích’, như là ‘dấu
hiệu và là dụng cụ của mối hiệp thông với
Thiên Chúa cũng như mối hiệp nhất nhân loại’
(Hiến Chế Lumen Gentium,
1)” (đoạn 42.2).
“Đối với
chúng ta những lời của Chúa Kitô về điểm này
quá rơ ràng để suy diễn ư nghĩa của những lời
Người nói. Cuộc hành tŕnh của Giáo Hội qua gịng
lịch sử đă cần đến nhiều sự,
cả thế kỷ mới này cũng không phải là ít
cần đến những sự ấy; thế nhưng,
nếu không có đức ái (agape) th́ tất cả mọi
sự chỉ là hư không. Thánh Tông Đồ Phaolô một
lần nữa đă nhắc nhở chúng ta trong trong bài ca yêu thương là cho dù chúng
ta có nói được các thứ ngôn ngữ của loài người
và thiên thần, và cho dù chúng ta có đức tin ‘chuyển dời
núi non’ đi nữa mà không có t́nh yêu th́ tất cả chỉ
là ‘không’ (x 1Cor 13:2). T́nh yêu thực sự là ‘con tim’ của
Giáo Hội, như Thánh Têrêsa Lisieux đă hiểu rất rơ,
vị Tôi đă tuyên phong làm Tiến Sĩ Hội Thánh chỉ
v́ Ngài đă thông thạo khoa học yêu thương scientia amoris: ‘Con biết Giáo Hội
có một Con Tim và Con Tim này bừng cháy Yêu Thương. Con
biết rằng chỉ có Yêu Thương mới tác động
các chi thể của Giáo Hội sinh hoạt... Con biết
rằng Yêu Thương bao gồm tất cả mọi ơn
gọi, Yêu Thương là tất cả mọi sự’ (Manuscript B, 3vo: Êuvres complètes –
Paris, 1996, p. 226)” (đoạn 42.3).
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Linh Đạo
Hiệp Thông”
·
“Việc làm cho Giáo Hội trở thành gia cư và
trường học hiệp thông là một thách đố lớn
chúng ta phải đối diện trong ngàn năm giờ đây
mở màn, nếu chúng ta muốn trung thành với dự án của
Thiên Chúa và đáp lại những ước vọng sâu xa
nhất của thế giới” (đoạn 43.1).
“Thế nhưng,
trong thực hành th́ điều này có nghĩa là ǵ? Cả ở
đây nữa, chúng ta có thể sẽ nghĩ ngay đến
những việc làm chúng ta cần phải thực hiện,
song đó không phải là động lực thôi thúc chúng
ta theo đuổi. Trước
khi phác họa một dự án thực tế, chúng ta
cần phải phát động
linh đạo hiệp thông đă, biến nó trở thành
nguyên tắc hướng dẫn việc giáo huấn khi đào
tạo giáo dân, khi huấn luyện các thừa tác viên bàn
thánh, các thành phần tận hiến cũng như các nhân
viên mục vụ, khi xây đắp các gia đ́nh và cộng
đồng. Linh đạo hiệp thông trước
hết nhắm đến việc tâm hồn biết chiêm
ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong chúng
ta, cũng như biết chiêm ngưỡng ánh sáng của Ba
Ngôi chúng ta thấy được phản chiếu trên gương
mặt của anh chị em sống chung quanh chúng ta. Linh đạo
hiệp thông cũng có nghĩa là lấy đức tin mà nghĩ
đến anh chị em chúng ta trong mối hiệp nhất
sâu xa của Nhiệm Thể Chúa Kitô như là ‘những người
thuộc phần thể của tôi’. Điều này
khiến chúng ta có thể chia vui sẻ buồn, có thể
biết được họ muốn ǵ và đáp lại
nhu cầu của họ, có thể đem đến cho họ
mối thân hữu sâu xa đích thực. Linh đạo
hiệp thông cũng bao gồm cả việc thấy được
những ǵ tốt lành nơi kẻ khác, đón nhận
những điều ấy và coi chúng như là tặng ân
Thiên Chúa ban, chẳng những như là một tặng ân cho
người anh em hay chị em đích thân lănh nhận chúng,
mà c̣n là một ‘tặng ân cho tôi’ nữa. Sau hết, linh đạo
hiệp thông nghĩa là biết cách ‘dành chỗ’ cho anh chị
em của chúng ta, bằng cách ‘mang lấy gánh nặng của
nhau’ (Gal 6:2), cũng như bằng cách chống lại các
xu hướng vị kỷ là xu hướng hằng liên lỉ
làm cho chúng ta thu ḿnh lại và châm ng̣i tranh đoạt,
dấu nghề, nghi ngờ và ghen tương. Chúng ta đừng
để ḿnh bị ảo tưởng, bởi v́,
những cơ cấu hiệp thông bề ngoài sẽ không có
lợi ích là bao nếu chúng ta không đi theo linh đạo
này. Chúng sẽ trở thành một thứ máy móc vô hồn,
trở thành ‘chiếc mặt nạ’ hiệp thông hơn là
trở thành phương tiện thể hiện và phát
triển hiệp thông” (đoạn 43.2).
“Bởi đó,
thế kỷ tới đây sẽ phải chứng
kiến thấy chúng ta, hơn bao giờ hết, chú trọng
đến việc đề cao và phát triển, theo như
những chỉ dẫn chính yếu của Công Đồng
Chung Vaticanô II, các thứ diễn đàn và cơ cấu giúp
vào việc bảo đảm cũng như duy tŕ mối
hiệp thông. Trước hết, chúng ta làm sao có thể không
kể đến những công
việc đặc biệt giúp cho mối hiệp thông, đó
là tác vụ Thừa Kế Thánh
Phêrô và gắn liền với tác vụ này c̣n có cả tính cách đoàn thể của hàng
giáo phẩm nữa...” (đoạn 44.1).
“Từ Công Đồng
Chung Vaticanô II đến nay nhiều điều đă được
thực hiện đối với việc cải tiến
Ṭa Thánh Rôma, việc tổ chức các Thượng Hội
Giám Mục và phần hành của các Hội Đồng Giám
Mục. Thế nhưng, chắc chắn vẫn c̣n
nhiều sự nữa cần phải làm, để có
thể thể hiện tất cả mọi khả năng
của những phương tiện hiệp thông này,
những phương tiện đặc biệt thích hợp
trong ngày hôm nay đây, những phương tiện liên quan đến
nhu cầu cần phải đáp ứng đúng lúc và một
cách hiệu lực đối với những vấn đề
Giáo Hội phải đương đầu ở vào
những lúc biến động nhanh chóng này” (đoạn
44.2).
“Phải vun trồng
và phát triển mối hiệp thông từng ngày và ở mọi
cấp cơ cấu sinh hoạt của mỗi Giáo Hội.
Hiệp thông phải là đặc tính rơ ràng ở nơi mọi
cấp cơ cấu sinh hoạt này, thể hiện qua
những mối liên hệ giữa các vị Giám Mục với
nhau, giữa các linh mục và phó tế, giữa Các Vị Mục
Tử và toàn thể Dân Chúa, giữa giáo sĩ và Tu sĩ,
giữa các hội đoàn và phong trào được hội
thánh công nhận...” (đoạn 45.1)
Qua đoạn tông thư 43, 44 và 45 trên đây, Vị
Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở
thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu”, trước hết
bằng “Linh Đạo Hiệp Thông”, một linh đạo
phải chi phối các việc huấn luyện nội bộ,
nhất là, kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, đă
có những cải tiến nơi cơ cấu tổ chức
và sinh hoạt trong Giáo Hội hoàn vũ cũng như
tại các Giáo Hội địa phương, một linh đạo
phải phản ảnh mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi,, làm cho chúng
ta nhờ đó sống với nhau như những chi
thể của cùng một thân thể, biết chia vui sẻ
buồn với nhau, biết mừng cho nhau khi được
hưởng phúc, cũng như biết chia sẻ nâng đỡ
nhau khi gặp gian nan hoạn nạn, một linh đạo
phải được thể hiện ở mọi
cấp trong Giáo Hội giữa đủ mọi thành
phần với nhau.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Ơn Gọi Khác
Biệt”
·
“Một quan niệm như vậy về mối
hiệp thông sẽ được gắn liền với
khả năng của cộng đồng Kitô hữu trong
việc dành chỗ cho tất cả mọi tặng ân của
Thần Linh. Mối hiệp nhất của Giáo Hội không
có tính cách đồng loạt, mà là một ḥa nhập theo cơ
cấu của những khác biệt hợp lư. Nó là một
thực tại của nhiều phần tử liên kết
lại trong cùng một thân thể duy nhất, Thân Thể Chúa
Kitô duy nhất (x 1Cor 12:12). Bởi thế, Giáo Hội của
Ngàn Năm Thứ Ba cần phải khích lệ tất
cả mọi người đă lănh nhận phép rửa và
thêm sức phải ư thức trách nhiệm chủ động
của ḿnh nơi sinh hoạt của Giáo Hội. Cùng với
thừa tác vụ thánh, các thừa tác vụ khác, đă được
chính thức thiết lập hay vừa được công
nhận, mới có thể triển nở cho thiện ích của
toàn thể cộng đồng, mới có thể hỗ trợ
tất cả mọi nhu cầu của cộng đồng,
từ việc dạy giáo lư cho đến việc phụng
vụ, từ việc giáo dục giới trẻ cho đến
lănh vực hoạt động bác ái bao rộng nhất” (đoạn
46.1).
“Một điều
chắc chắn là cần phải tích cực hoạt động,
nhất là bằng lời thiết tha nguyện cầu với
Vị Chúa của mùa màng (x Mt 9:38), để làm sao có
thể phát động ơn gọi
làm linh mục và sống đời tận hiến tu tŕ.
Đây là một vấn đề đang được
quan tâm rất nhiều đối với đời
sống của Giáo Hội ở mọi phần đất
trên thế giới. Nơi một số xứ sở Kitô
giáo cổ truyền, t́nh trạng này đă trở nên thê
thảm, v́ hoàn cảnh xă hội đổi thay cũng như
v́ khuynh hướng coi thường đạo giáo phát
xuất từ một tâm thức hưởng thụ và tục
hóa. Cần phải khẩn trương thực hiện một
dự án mạnh mẽ về việc
phát động ơn gọi, bằng việc liên
lạc riêng tư cũng như bằng nỗ lực của
giáo xứ, học đường và gia đ́nh trong
việc nuôi dưỡng một tâm tư chuyên chú hơn
nữa đến những giá trị chính yếu của đời
sống. Những việc này sẽ đạt tới thành
quả của chúng khi mỗi người biết đáp
lại ơn gọi của Thiên Chúa, nhất là ơn gọi
đ̣i phải hoàn toàn hiến bản thân và nghị lực
của ḿnh cho Vương Quốc của Thiên Chúa” (đoạn
46.2).
“Từ quan điểm
này, chúng ta thấy được giá trị của tất
cả mọi ơn gọi khác nữa, những ơn gọi
được bắt nguồn từ đời sống mới
được lănh nhận nơi Bí Tích Rửa Tội.
Nhất là cần phải hoàn toàn nhận thức hơn bao
giờ hết ơn gọi đặc
biệt của người giáo dân, một ơn gọi
‘t́m kiếm nước Chúa bằng việc tham gia làm các công
việc trần thế và bằng việc hoàn thành những
việc ấy theo dự án của Thiên Chúa’ (Hiến
Chế Lumen Gentium, 31); họ
‘đóng vai tṛ riêng của ḿnh trong việc thực hiện
sứ vụ truyền giáo của toàn thể dân Chúa trong
Giáo Hội và trên thế giới..., bằng việc họ
hoạt động cho việc truyền bá phúc âm hóa cũng
như việc thánh hóa con người’ (Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, 2)” (đoạn
46.3).
“Theo chiều hướng
ấy, c̣n một khía cạnh quan trọng khác nữa của
mối hiệp thông đó là t́nh
trạng nổi lên các h́nh thức
hội đoàn, các h́nh thức hội đoàn theo
kiểu cổ truyền hơn hay các phong trào hội thánh mới
mẻ hơn, những phong trào tiếp tục hiến cho
Giáo Hội một thứ sinh lực là tặng ân Chúa ban và
thực sự là một ‘mùa xuân Thần Linh’. Dĩ nhiên là
các hội đoàn và phong trào này cần phải hoạt động
hoàn toàn ḥa hợp với cả Giáo Hội hoàn vũ
lẫn Giáo Hội riêng, cũng như phải tuân theo các chỉ
thị thẩm quyền của Vị Mục Tử.
Thế nhưng, tất cả chúng ta cần phải lưu
ư đến lời cảnh giác xác đáng và quyết
liệt của Thánh Tông Đồ là ‘hăy chớ dập
tắt Thần Linh, đừng coi thường các ơn
tiên tri, nhưng hăy cân nhắc mọi sự và hăy giữ
lấy những ǵ là tốt lành’ (1Th 5:19-21)” (đoạn
46.4).
“Vào một thời điểm
lịch sử như thời điểm hiện nay, cũng
cần phải chú trọng đặc biệt đến
vấn đề chăm sóc mục
vụ gia đ́nh, nhất là vào lúc cơ cấu nồng
cốt này lại đang trải qua một cuộc khủng
hoảng tràn lan đụng đến tận căn
gốc của nó. Theo quan điểm Kitô giáo về gia đ́nh
th́ mối liên hệ giữa một người nam và một
người nữ, một mối giao kết hỗ tương
và trọn vẹn, chuyên nhất và bất khả phân ly,
nằm ngay ở trong dự án của Thiên Chúa, bị lu mờ
theo gịng lịch sử bởi t́nh trạng ‘cứng ḷng’ của
chúng ta, nhưng cũng là những ǵ Chúa Kitô đă đến
để phục hồi ánh quang nguyên tuyền của nó, tỏ
cho thấy những ǵ Thiên Chúa mong muốn ‘từ ban đầu’
(Mt 19:8). Được nâng lên phẩm vị của một
Bí Tích, hôn nhân cho thấy ḿnh là một ‘mầu nhiệm cao
cả’ của t́nh yêu phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội
của Người (x Eph 5:32)” (đoạn 47.1).
“Về vấn đề
này, Giáo Hội không thể thụt lùi trước sức
ép của văn hóa, bất kể là những sức ép này có tràn ngập đến đâu đi
nữa, và thậm chí có dữ dằn đến thế nào
chăng nữa. Trái lại, cần phải làm sao có thể
bảo đảm rằng, được đào tạo
theo Phúc Âm hoàn toàn hơn bao giờ hết, các gia đ́nh Kitô
hữu sẽ chứng tỏ cho thấy một cách
chắc chắn là con người ta có thể hoàn toàn
sống đời hôn nhân phù hợp với ư định của
Thiên Chúa, cũng như phù hợp với thiện ích đích
thực của con người, của đôi phối
ngẫu, cũng như của thành phần con cái yếu
thế hơn. Chính gia đ́nh phải càng ngày càng ư thức được
việc chăm sóc thích hợp với con cái, và đóng vai tṛ
chủ động trong Giáo Hội cũng như trên
thế giới để bảo toàn các quyền lợi của
gia đ́nh” (đoạn 47.2).
Qua đoạn tông thư 46 và 47 trên đây, Vị
Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở
thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” theo “Ơn Gọi Khác Biệt”
của mỗi một người, ở chỗ, ư thức
trách nhiệm chủ động của ḿnh nơi sinh
hoạt của Giáo Hội trong mọi lănh vực thích hợp
với ḿnh, những trách nhiệm của vai tṛ là thành
phần giáo sĩ hay tu sĩ, một ơn gọi ngày nay
cần phải được phát động hơn
nữa, hay của vai tṛ là thành phần tông đồ giáo
dân, một ơn gọi sống giữa ḷng đời để
biến đổi trần thế, một ơn gọi đă
được hiện thân qua những mẫu hội đoàn
cũ mới để đắc lực phục vụ
Giáo Hội trong tinh thần hiệp nhất với Giáo Hội,
một ơn gọi c̣n được thể hiện qua đời
sống hôn nhân gia đ́nh theo đúng ư định của
Thiên Chúa để làm sáng tỏ mầu nhiệm Chúa Kitô và
Giáo Hội.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Tham Gia Đại
Kết”
·
“Chúng ta phải nói sao đây về công việc
khẩn trương đối với vấn đề nuôi
dưỡng mối hiệp thông nơi lănh vực đại kết tế nhị?
Tiếc thay, vượt qua ngưỡng cửa của một
tân thiên niên kỷ mà chúng ta vẫn c̣n mang theo ḿnh cái gia
sản buồn thảm của quá khứ. Cuộc Mừng
Kỷ Niệm đă đem lại một vài dấu hiệu
cho thấy thực sự tiến triển và hy vọng
trong vấn đề này, song trước mặt chúng ta
vẫn c̣n là một con đường dài phải trải
qua” (đoạn 48.1).
“Khi nh́n thẳng vào
Chúa Kitô, Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm đă
khiến chúng ta thấy được cái ư nghĩa
sống động của một Giáo Hội là mầu nhiệm
hiệp nhất. Những ǵ chúng ta tuyên xưng nơi Kinh
Tin Kính: ‘tôi tin Giáo Hội duy nhất’ có một nền tảng tối hậu nơi
Chúa Kitô là Đấng trong Người Giáo Hội không bị
phân chia (x 1Cor