“Lời cầu của
Chúa Kitô nhắc chúng ta nhớ rằng tặng ân này cần
phải được lănh nhận cũng như cần
phải được phát triển sâu sa hơn bao giờ
hết. Lời nguyện cầu ‘ut
unum sint’ ‘cho họ được nên một’ cùng một
lúc vừa là một lệnh buộc, một sức
mạnh bảo tŕ chúng ta, vừa là một lời trách khéo
về t́nh trạng tŕ trệ và khép kín của chúng ta
nữa. Chính ở nơi lời nguyện cầu ấy của
Chúa Giêsu, chứ không phải do sức riêng của ḿnh, mà chúng
ta mới hy vọng rằng, ngay trong gịng lịch sử
này, chúng ta sẽ đạt được mối hiệp
thông trọn vẹn về h́nh thức giữa tất
cả mọi Kitô hữu” (đoạn 48.3).
“Theo chiều hướng
của việc chúng ta làm mới lại cuộc hành hương
sau năm Mừng Kỷ Niệm, Tôi rất hy vọng nơi
các Giáo Hội Đông Phương,
và Tôi nguyện cầu để Giáo Hội được
hoàn toàn trở lại với việc trao đổi các
tặng ân làm phong phú Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ
nhất. Chớ ǵ việc hoài niệm về thời gian
Giáo Hội c̣n thở bằng ‘cả hai buồng phổi’
thúc giục Kitô hữu Đông phương cũng như
Tây phương hăy cùng nhau bước đi trong niềm
hiệp nhất của đức tin, cũng như với
một ḷng tôn trọng tính cách khác biệt hợp pháp,
bằng việc chấp nhận và nâng đỡ nhau như
là phần tử của cùng một Thân Thể Chúa Kitô duy
nhất” (đoạn 48.4).
“Việc nuôi dưỡng
vấn đề đối thoại đại kết cũng
phải được thực hiện tương tự
như vậy đối với cả anh chị em Anh Giáo Hiệp Thông cũng như
với các Cộng Động Giáo Hội Cải Cách nữa.
Nhờ ơn Chúa, việc bàn thảo về các vấn đề
chính yếu của đức tin cũng như của
nền luân lư Kitô giáo, việc hợp tác thực hiện các
việc bác ái xă hội, và nhất là việc đại
kết cao cả về thánh đức, sẽ không ngừng
sinh hoa kết trái. Trong lúc này đây, chúng ta hăy cứ tin tưởng
tiếp tục cuộc hành tŕnh của chúng ta, ước
mong có một lúc nào đó, cùng với mỗi người và
mọi người môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta có
thể hợp xướng với tất cả cơi ḷng câu:
‘Anh em xum họp một nhà, bao là tốt đẹp, bao là xướng
vui!’ (Ps 133:1)” (đoạn 48.5).
Qua đoạn tông thư 48 trên đây, Vị Đại
Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những
“Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Tham Gia Đại
Kết”, ở chỗ, Kitô hữu chúng ta, cà Giáo Hội Công
Giáo Rôma, Chính Thống Giáo Đông Phương và Giáo Hội Cải
Cách Tây Phương, phải làm sao để có thể
thực sự tỏ ra muốn lănh nhận ơn hiệp
nhất Thiên Chúa luôn tuôn ban cho chung Giáo Hội duy nhất của
Chúa Kitô, Đấng đă xin “cho họ được nên một”,
một mối hiệp nhất làm nên thực tại của
Giáo Hội Người, song bề ngoài đă bị rạn
nứt nơi nỗi yếu hèn của con cái Giáo Hội
trong gịng lịch sử thời gian, khi họ đáp ứng
nguyện vọng hiệp nhất của Chúa Kitô và ân sủng
hiệp nhất của Thần Linh.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Thắt Kết Đức
Aùi”
·
“Đức ái thuộc bản tính của Giáo Hội,
bắt đầu từ mối hiệp thông nội
tại của Giáo Hội, phải biết hướng
ngoại qua việc phục vụ đại đồng; đức
ái thúc đẩy chúng ta dấn
thân yêu thương hết mọi người một cách
thực tế và cụ thể. Đây cũng là một khía
cạnh phải làm nên đặc tính tỏ tường của
đời sống Kitô giáo, của toàn thể việc Giáo Hội
hoạt động cũng như của việc Giáo Hội
hoạch định về lănh vực mục vụ. Cái
thế kỷ và thiên kỷ giờ đây mở màn cần
phải thấy, hy vọng c̣n được thấy rơ
ràng hơn nữa, việc cộng đồng Kitô hữu
dấn thân sâu xa trong việc bác ái đối với thành
phần bần cùng nhất. Nếu chúng ta bắt đầu
lại bằng việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô, chúng ta
phải biết nh́n ngắm Người nơi các gương
mặt của thành phần mà chính Người muốn
tự đồng hóa với họ: ‘Ta đói bụng các ngươi
đă cho Ta ăn, Ta khát nước các ngươi đă cho
Ta uống, Ta khách lạ các ngươi đă đón
tiếp Ta, Ta trần trụi các ngươi đă mặc
cho Ta, Ta đau yếu các ngươi đă viếng thăm
Ta, Ta ngục tù các ngươi đă đến với Ta’
(Mt 25:35-37). Đoạn Phúc Âm này không phải chỉ là một
lời mời gọi làm việc bác ái thôi, mà c̣n là một
chương sách về Kitô học chiếu lên một tia
sáng cho thấy mầu nhiệm Chúa Kitô. Căn cứ vào
những lời ấy, không là ǵ khác ngoài giáo huấn chính
truyền của ḿnh, Giáo Hội đă đo lường ḷng
trung thành của ḿnh với tư cách ḿnh là Phu Nhân của Chúa
Kitô” (đoạn 49.1).
“Chúng ta phải
chắc một điều là t́nh yêu của chúng ta không được
loại trừ một ai, v́ ‘qua việc nhập thể của
ḿnh, Con Thiên Chúa đă hiệp nhất bản thân Người
một cách nào đó với hết mọi người’
(Hiến Chế Gaudium et Spes,
32). Tuy nhiên, những lời minh bạch của Phúc Âm đă
nhắc cho chúng ta nhớ rằng, Chúa Kitô hiện diện đặc
biệt nơi người nghèo, và bởi thế Giáo Hội
cần phải tỏ ra ưu ái họ. Mối ưu ái này
là chứng từ cho thấy bản tính là t́nh yêu của
Thiên Chúa, cho thấy việc quan pḥng và ḷng thương xót của
Ngài, và lịch sử, một cách nào đó, vẫn c̣n cho
thấy đầy những mầm mống của Vương
Quốc Thiên Chúa, được chính Chúa Giêsu gieo văi khi Người
c̣n sống trên trần gian, thời gian Người đă
làm thỏa đáng tất cả những ai đến với
Người v́ nhu cầu về tinh thần cũng như
vật chất” (đoạn 49.2).
“Trong thời đại
của chúng ta đây, có rất nhiều nhu cầu cần đến
việc những người Kitô hữu tỏ ra thương
cảm đáp ứng. Thế giới chúng ta hiện
sống đang tiến vào một tân thiên kỷ mang
nặng những nghịch thường đối với
một t́nh trạng tiến bộ về kinh tế, văn
hóa và kỹ thuật, một t́nh trạng tiến bộ
mang lại những cơ hội lớn lao cho một
số ít người may mắn, trong khi đó lại bỏ
rơi cả triệu triệu người khác, chẳng
những ở ngoài ŕa tiến bộ mà c̣n ở trong
những hoàn cảnh sống c̣n xa mức tối thiểu xứng
với phẩm vị làm người nữa. Cho đến
ngày hôm nay làm sao lại c̣n có thể xẩy ra được
cảnh con người chết đói? Dốt nát? Thiếu
cả nhu cầu căn bản nhất về y tế? Không
có lấy một mái nhà để ở?” (đoạn 50.1).
“Ngoài những h́nh thức
nghèo khổ vẫn có từ trước tới nay, nếu
chúng ta nghĩ đến những kiểu nghèo khổ mới
mẻ hơn, chúng ta sẽ thấy vô khối cảnh bi
thảm của t́nh trạng nghèo khổ nữa. Những
kiểu nghèo khổ mới này thường xẩy ra nơi
những lănh vực và nhóm người dồi dào về tài
chính song lại bị đe dọa bởi thất vọng
v́ thiếu mất ư nghĩa của cuộc đời, ở
việc nghiện ngập, ở nỗi lo sợ bị bỏ
rơi trong tuổi già và lúc bệnh nạn ốm đau, ở
t́nh trạng sống bên lề xă hội hay bị xă hội
kỳ thị. Trước t́nh trạng này, Kitô hữu
phải biết tỏ ra tác động chứng tỏ ḿnh
tin vào Chúa Kitô, bằng việc nhận ra tiếng của Người
kêu cầu giúp đỡ vang lên từ giới nghèo ấy.
Nghĩa là chúng ta chẳng những phải thực hiện
truyền thống bác ái qua nhiều cách thức khác nhau của
hai ngàn năm trước đây, mà ngày nay chúng ta c̣n cần
có thêm nguồn trợ giúp hơn thế nữa. Lúc này là thời
điểm cho một cuộc ‘sáng tạo’ mới trong
việc thi hành đức bác ái, chẳng những bằng
cách bảo đảm việc giúp đỡ làm sao cho có
kết quả, mà c̣n bằng việc xích lại gần hơn
với những ai sầu khổ, với bàn tay cứu trợ
không phải giơ ra để bố thí song là để
chia sẻ giữa anh chị em với nhau” (đoạn
50.2).
“Thế nên, chúng ta
phải làm sao cho người nghèo khổ cảm thấy
tự nhiên như ở nhà của họ nơi mọi cộng
đồng Kitô hữu. Đường lối này chẳng
lẽ không phải là cách tŕnh bày cao cả nhất và
hữu hiệu nhất tin mừng về Vương
Quốc Thiên Chúa hay sao? Thiếu h́nh thức truyền bá phúc
âm hóa bằng đức bác ái này, và thiếu chứng từ
về đức khó nghèo Kitô giáo, th́ việc loan báo Phúc Âm, một
việc tự ḿnh đă là một h́nh thức căn
bản của đức bác ái, sẽ dễ bị
hiểu lầm hay bị dập vùi dưới ḷng đại
dương của ngôn từ là những ǵ hằng ngày làm
chúng ta nhấp nhô trong một xă hội đầy những
phương tiện truyền thông ngày nay. Đức bác ái tác hành bảo đảm tính
cách hiệu năng chắc chắn cho đức bác ái rao giảng” (đoạn 50.3).
Qua đoạn tông thư 49 và 50 trên đây, Vị
Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở
thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Thắt
Kết Đức Ái”, nhất là với thành phần nghèo khó,
chẳng những với thành phần nghéo khó về vật
chất trong xă hội, một xă hội đang tiến theo
chiều hướng toàn cầu hóa thiên về lợi lộc
của một thiểu số có cơ may song lại
rất bất lợi cho đại đa số kém may
mắn hơn, nên đă phải sống trong những hoàn
cảnh bất xứng với nhân phẩm làm người,
mà c̣n với cả thành phần nghèo khó về tâm linh, một
h́nh thức nghèo khó mới mẻ ngày nay ở nơi chính
những chỗ sung túc về vật chất; tuy nhiên,
việc “thắt kết đức ái” với cả hai
thành phần nghèo khó về vật chất lẫn tâm linh này
chẳng những phải được tỏ ra ở việc
cứu trợ họ một cách thỏa đáng nhu cầu
của họ, mà c̣n ở cách cứu trợ họ một
cách thân t́nh nữa, đến nỗi làm cho họ cảm
thấy vui thỏa trong t́nh nghĩa gia đ́nh với ḿnh.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Thách Đố Ngày
Nay”
·
“Rồi chúng ta làm sao dửng dưng được
trước t́nh trạng khủng
hoảng về môi sinh, một cuộc khủng hoảng
đang khiến những vùng rộng lớn trên trái đất
của chúng ta trở thành bất khả cư ngụ và
nguy hiểm cho nhân loại? Hay dửng dưng trước
những vấn đề ḥa b́nh
rất thường bị chập chờn đe dọa bởi
những cuộc chiến thê thảm? Hoặc dửng dưng
trước t́nh trạng khinh
thường các quyền làm người căn bản của
nhiều người, nhất là của trẻ em? Hết mọi
tấm ḷng của người Kitô hữu phải nhậy
cảm đối với vô số những trường hợp
khẩn trương này” (đoạn 51.1).
“Cần phải đặc
biệt chú trọng đến một số khía cạnh nơi
sứ điệp nồng cốt của Phúc Âm thường
ít được hiểu đứng đắn, thậm
chí c̣n muốn gạt bỏ sự có mặt của Giáo Hội
nữa, thế nhưng, sứ điệp ấy dầu
sao cũng vẫn thuộc về sứ vụ đức
ái của Giáo Hội. Tôi có ư nói đến phận vụ
phải quyết tâm tôn trọng
sự sống của hết mọi người, từ
lúc được thụ thai cho đến khi tự nhiên
mà chết. Cũng thế, việc phục vụ nhân
loại phải khiến cho chúng ta, dù thuận tiện hay
không thuận lợi, bảo đảm được
rằng những người sử dụng các thứ phát minh tân tiến mới nhất của khoa học,
nhất là trong ngành kỹ thuật về sinh vật học,
không bao giờ được gạt bỏ những bó buộc
căn bản về luân lư, bằng cách nại vào mối đoàn
kết mập mờ thường dẫn đến việc
phân biệt giữa sự sống này với sự
sống kia, cũng như đến việc coi thường
phẩm giá của mọi người” (đoạn 51.2).
“Để chứng
từ Kitô giáo có tác hiệu, nhất là nơi những lănh
vực tế nhị và c̣n đang tranh luận này, cần
phải tỏ ra nỗ lực trong việc giải thích một
cách thích hợp những lư do về những ǵ Giáo Hội
chủ trương, nhấn mạnh cho con người
thấy rằng Giáo Hội không áp đặt quan điểm
thuộc đức tin lên thành phần không phải là tín
hữu, mà Giáo Hội chỉ cắt nghĩa và bảo vệ
những giá trị được bắt nguồn từ
chính bản tính của con người thôi. Có như
thế, đức bác ái mới thực sự phục vụ
cho văn hóa, chính trị, kinh tế và gia đ́nh, để
khắp mọi nơi mới biết tôn trọng những
nguyên tắc căn bản là nền móng cho định mệnh
của con người cũng như cho nền văn minh
mai hậu” (đoạn 51.3).
“Hiển nhiên là
tất cả những việc này phải được
thực hiện theo đường lối riêng biệt của
Kitô giáo, ở chỗ, thành phần giáo dân phải đặc biệt hiện diện
ở những lănh vực này trong việc sống trọn ơn
gọi giáo dân của ḿnh, không bao giờ xoay theo xu hướng
muốn biến các cộng đồng Kitô giáo trở thành
những cơ quan xă hội thuần túy. Nhất là việc
Giáo Hội liên hệ với xă hội dân sự, theo chủ
trương của học thuyết xă hội của Giáo Hội,
phải tỏ ra biết tôn trọng quyền tự
quyết của xă hội này cũng như biết tôn trọng
những lănh vực hợp pháp” (đoạn 52.1).
“Người ta quá
biết rằng Giáo Hội đă dùng quyền giáo huấn của
ḿnh, nhất là trong thế kỷ 20, để góp phần
vào việc cắt nghĩa những thực tại xă hội
theo ư nghĩa Phúc Aâm, cũng như trong việc cống
hiến phần đóng góp của ḿnh một cách hợp thời
và có phương pháp vào việc giải quyết những
vấn đề xă hội, những vấn đề giờ
đây đă mặc một tần vóc toàn cầu” (đoạn
52.2).
“Khía cạnh luân lư và
xă hội của vấn đề đó là yếu tố chính
yếu cho chứng từ Kitô giáo, ở chỗ, chúng ta
phải loại trừ xu hướng muốn cống
hiến cho con người một thứ linh đạo
sống tư biệt và cá nhân, một thứ linh đạo
hoàn toàn tương phản với những đ̣i hỏi của
đức bác ái, loại trừ xu hướng không
muốn nói ǵ đến những ư nghĩa hàm xúc của
biến cố Nhập Thể, và do đó cũng không đả
động ǵ tới niềm trông ngóng cánh chung của Kitô
giáo. Niềm trông ngóng cánh chung này một khi làm cho chúng ta
nhận thức được tính chất tương đối
của lịch sử th́ không có nghĩa là cũng làm cho chúng
ta buông xuôi thôi không ‘đi làm’ lịch sử nữa. Giáo
huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II ở đây hợp
thời hơn bao giờ hết: ‘Sứ điệp Kitô
giáo không ngăn cản con người nam nữ trong việc
dựng xây thế giới, hay làm cho họ dửng dưng đối
với an sinh của đồng loại ḿnh; trái lại, nó
thúc buộc họ lại càng phải làm chính những điều
này một cách trọn vẹn hơn nữa’ (Hiến
Chế Gaudium et Spes, 34)” (đoạn
52.2).
Qua đoạn tông thư 51 và 52 trên đây, Vị
Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở
thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” trước những
“Thách Đố Ngày Nay”, như t́nh trạng khủng
hoảng môi sinh, t́nh trạng chiến tranh loạn lạc,
nhất là t́nh trạng vi phạm nhân quyền, nhất là vi
phạm đến quyền lợi về sự sống, ở
chỗ, Kitô hữu, nhất là thành phần giáo dân ở ngay
trong ḷng đời, phải làm sao giải thích cho con người
ngày nay biết những ǵ Giáo Hội Công Giáo truyền
dạy không phải là để bắt thành phần khác
niềm tin với ḿnh phải tuân giữ, cho bằng để
bảo vệ các giá trị nhân bản chân chính, để
chẳng những xây dựng một xă hội loài người
theo đúng đường hướng của Phúc Âm Chúa
Kitô, mà c̣n giải quyết những vấn đề xă hội
một cách thích hợp nữa, theo chiều kích Nhập
Thể và cánh chung của Kitô giáo.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Dấu Hiệu Cụ
Thể”
·
“Để tỏ dấu hiệu cho việc
dấn thân thực hiện đức bác ái và cổ vơ nhân
bản này, một việc dấn thân được
bắt nguồn từ những đ̣i hỏi cốt
yếu nhất của Phúc Aâm, Tôi quyết định là
năm Mừng Kỷ Niệm, ngoài vụ mùa dồi dào đă
gặt hái được – Tôi có ư nói đến ở đây
đặc biệt là việc trợ giúp cho rất
nhiều anh chị em nghèo hơn của chúng ta để họ
có cơ hội tham dự vào Cuộc Mừng Kỷ Niệm
– phải để lại một quĩ đóng góp
nào đó có thể nói lên cho thấy nó là hoa trái và là ấn tín của t́nh yêu phát tỏa từ
cuộc Mừng Kỷ Niệm. Nhiều người
hành hương đă dâng cúng và nhiều nhà làm đầu
ngành tài chính đă hợp nhau quảng đại hỗ trợ
để giúp vào việc tổ chức xứng đáng cuộc
Mừng Kỷ Niệm. Sau khi những chi phí cho năm này được
trang trải hết th́ số tiền c̣n lại sẽ được
dành vào những công cuộc bác ái. Điều quan trọng
là một biến cố tôn giáo chính yếu như thế
phải làm sao hoàn toàn không dính dáng ǵ tới bất cứ một
h́nh thức kiếm chác tiền bạc nào. Số tiền
bạc bất kể là bao nhiêu sẽ được dùng
vào việc tiếp tục cái kinh nghiệm thường hay
được nhắc lại ngay từ thuở ban đầu
của Giáo Hội, lúc mà cộng đồng Giêrusalem đă
làm cho những người không phải là Kitô hữu
phải cảm kích khi thấy việc người Kitô
hữu tự động trao đổi cho nhau những ân
huệ được hưởng, thậm chí cho đến
độ v́ thành phần nghèo khó họ đă để mọi
sự làm của chung (x Acts 2:44-45)” (đoạn 53.1).
“Qũi đóng góp được
thiết lập này chỉ là một lạch nước nhỏ
tuôn chảy vào con sông cả của đức ái Kitô giáo, một
con sông đức ái vẫn trôi theo gịng lịch sử. Dù nhỏ
song lại là một lạch nước đáng kể, ở
chỗ, nhờ Cuộc Mừng Kỷ Niệm, thế giới
đă hướng nh́n về Rôma, một Giáo Hội ‘trị
v́ trong đức ái’ (x Thánh Ignatiô Antiôkia, Thư gửi Những Người Rôma, Lời Nói
Đầu, , ed. Funk, I, 252), và đă mang đến cho Phêrô
các tặng vật của họ. Giờ đây, đức
ái được tỏ hiện ở ngay chính tâm điểm
của Giáo Hội Công Giáo này phải làm sao chảy ngược
trở về lại với thế giới bằng
dấu hiệu đức ái ấy, thứ dấu hiệu
đức ái cần phải là một di sản bền
vững và là một ghi niệm mối hiệp thông được
cảm nghiệm thấy trong Cuộc Mừng Kỷ Niệm”
(đoạn 53.2).
Qua đoạn tông thư 53 trên đây, Vị Đại
Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những
“Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Thắt Kết Đức
Ái” được tỏ ra qua một “Dấu Hiệu Cụ
Thể”, đó là việc Ṭa Thánh thiết lập một quĩ
đóng góp, một quĩ do nhiều người công tư đă
đóng góp vào việc tổ chức Năm Thánh 2000 song c̣n dư
lại để làm việc bác ái sau này, quĩ này như gịng
sông đức ái của Giáo Hội liên tục chảy qua
gịng lịch sử thế giới từ đầu cho tới
nay.
“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Đối
Thoại Truyền Giáo”
·
“Một thế kỷ mới, một thiên kỷ
mới đang mở ra trong ánh sáng của Chúa Kitô. Thế
nhưng, không phải là tất cả mọi người đều
có thể thấy được ánh sáng này. Việc chúng ta
làm là một việc làm tuyệt vời và gay go để
trở nên ‘phản chiếu’ của ánh sáng này. Đó là một
thứ mầu nhiệm của vầng trăng mysterium lunae, một mầu nhiệm
được các Giáo Phụ (chẳng hạn Thánh Aâu
Quốc Tinh: Enarrationes in Psalmos,
10, 3: CCL 38, 42) chiêm ngắm rất nhiều, những vị
đă sử dụng h́nh ảnh này để nói lên cho
thấy việc Giáo Hội lệ thuộc vào Chúa Kitô là
Vầng Dương chiếu ánh sáng được phản
ánh nơi Giáo Hội. Đó chính là cách diễn tả
những ǵ chính Chúa Kitô nói khi Người xưng ḿnh là ‘ánh
sáng thế gian’ (Jn
“Đây là một việc
làm chúng ta choáng váng nếu chúng ta xét đến nỗi
yếu hèn của con người chúng ta, một nỗi
yếu hèn rất hay làm cho chúng ta trở thành mờ mịt
và đầy tăm tối. Thế nhưng, nó lại là công
việc chúng ta có thể thực hiện được,
nếu chúng ta biết hướng về ánh sáng của Chúa
Kitô, và mở ḷng ḿnh ra cho ân sủng là những ǵ làm cho chúng
ta trở thành một tạo vật mới” (đoạn
54.2).
“Chính trong chiều hướng
này mà chúng ta phải để ư đến cuộc thách đố
lớn lao trong vấn đề đối
thoại liên tôn, một vấn đề đối
thoại chúng ta vẫn phải chú trọng tới trong ngàn
năm mới, theo đúng giáo huấn của Công Đồng
Chung Vaticanô II (x Tuyên Ngôn Nostra
Aetate). Trong những năm sửa soạn cho Cuộc Đại
Hỷ Kỷ Niệm, Giáo Hội đă t́m cách xây dựng một mối liên hệ cởi
mở và trao đổi với các tín đồ của các tôn
giáo khác, chứ không phải chỉ có một loạt
những cuộc gặp gỡ tiêu biểu đại
thể vậy thôi. Cuộc đối thoại trao đổi
này phải được tiếp tục kéo dài. Trong
chiều hướng đa văn hóa và đa tôn giáo được
cho rằng là những ǵ làm nên đặc tính của tân
thiên niên kỷ đây, th́ hiển nhiên việc đối
thoại trao đổi này sẽ thật là quan trọng,
trong việc thiết lập một nền tảng ḥa b́nh
vững chắc, cũng như trong việc dẹp bỏ đi
cái ám ảnh rùng rợn của những cuộc chiến
tranh tôn giáo vẫn thường nhuộm đỏ lịch
sử loài người. Danh xưng của một vị
Thiên Chúa duy nhất càng ngày càng phải trở thành những
ǵ được gọi là một
danh xưng ḥa b́nh và là một hiệu triệu ḥa b́nh” (đoạn
55.1).