“Lời cầu của Chúa Kitô nhắc chúng ta nhớ rằng tặng ân này cần phải được lănh nhận cũng như cần phải được phát triển sâu sa hơn bao giờ hết. Lời nguyện cầu ‘ut unum sint’ ‘cho họ được nên một’ cùng một lúc vừa là một lệnh buộc, một sức mạnh bảo tŕ chúng ta, vừa là một lời trách khéo về t́nh trạng tŕ trệ và khép kín của chúng ta nữa. Chính ở nơi lời nguyện cầu ấy của Chúa Giêsu, chứ không phải do sức riêng của ḿnh, mà chúng ta mới hy vọng rằng, ngay trong gịng lịch sử này, chúng ta sẽ đạt được mối hiệp thông trọn vẹn về h́nh thức giữa tất cả mọi Kitô hữu” (đoạn 48.3).

 

“Theo chiều hướng của việc chúng ta làm mới lại cuộc hành hương sau năm Mừng Kỷ Niệm, Tôi rất hy vọng nơi các Giáo Hội Đông Phương, và Tôi nguyện cầu để Giáo Hội được hoàn toàn trở lại với việc trao đổi các tặng ân làm phong phú Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất. Chớ ǵ việc hoài niệm về thời gian Giáo Hội c̣n thở bằng ‘cả hai buồng phổi’ thúc giục Kitô hữu Đông phương cũng như Tây phương hăy cùng nhau bước đi trong niềm hiệp nhất của đức tin, cũng như với một ḷng tôn trọng tính cách khác biệt hợp pháp, bằng việc chấp nhận và nâng đỡ nhau như là phần tử của cùng một Thân Thể Chúa Kitô duy nhất” (đoạn 48.4).

 

“Việc nuôi dưỡng vấn đề đối thoại đại kết cũng phải được thực hiện tương tự như vậy đối với cả anh chị em Anh Giáo Hiệp Thông cũng như với các Cộng Động Giáo Hội Cải Cách nữa. Nhờ ơn Chúa, việc bàn thảo về các vấn đề chính yếu của đức tin cũng như của nền luân lư Kitô giáo, việc hợp tác thực hiện các việc bác ái xă hội, và nhất là việc đại kết cao cả về thánh đức, sẽ không ngừng sinh hoa kết trái. Trong lúc này đây, chúng ta hăy cứ tin tưởng tiếp tục cuộc hành tŕnh của chúng ta, ước mong có một lúc nào đó, cùng với mỗi người và mọi người môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta có thể hợp xướng với tất cả cơi ḷng câu: ‘Anh em xum họp một nhà, bao là tốt đẹp, bao là xướng vui!’ (Ps 133:1)” (đoạn 48.5).

 

Qua đoạn tông thư 48 trên đây, Vị Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Tham Gia Đại Kết”, ở chỗ, Kitô hữu chúng ta, cà Giáo Hội Công Giáo Rôma, Chính Thống Giáo Đông Phương và Giáo Hội Cải Cách Tây Phương, phải làm sao để có thể thực sự tỏ ra muốn lănh nhận ơn hiệp nhất Thiên Chúa luôn tuôn ban cho chung Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô, Đấng đă xin “cho họ được nên một”, một mối hiệp nhất làm nên thực tại của Giáo Hội Người, song bề ngoài đă bị rạn nứt nơi nỗi yếu hèn của con cái Giáo Hội trong gịng lịch sử thời gian, khi họ đáp ứng nguyện vọng hiệp nhất của Chúa Kitô và ân sủng hiệp nhất của Thần Linh.

 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Thắt Kết Đức Aùi”

 

·        “Đức ái thuộc bản tính của Giáo Hội, bắt đầu từ mối hiệp thông nội tại của Giáo Hội, phải biết hướng ngoại qua việc phục vụ đại đồng; đức ái thúc đẩy chúng ta dấn thân yêu thương hết mọi người một cách thực tế và cụ thể. Đây cũng là một khía cạnh phải làm nên đặc tính tỏ tường của đời sống Kitô giáo, của toàn thể việc Giáo Hội hoạt động cũng như của việc Giáo Hội hoạch định về lănh vực mục vụ. Cái thế kỷ và thiên kỷ giờ đây mở màn cần phải thấy, hy vọng c̣n được thấy rơ ràng hơn nữa, việc cộng đồng Kitô hữu dấn thân sâu xa trong việc bác ái đối với thành phần bần cùng nhất. Nếu chúng ta bắt đầu lại bằng việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô, chúng ta phải biết nh́n ngắm Người nơi các gương mặt của thành phần mà chính Người muốn tự đồng hóa với họ: ‘Ta đói bụng các ngươi đă cho Ta ăn, Ta khát nước các ngươi đă cho Ta uống, Ta khách lạ các ngươi đă đón tiếp Ta, Ta trần trụi các ngươi đă mặc cho Ta, Ta đau yếu các ngươi đă viếng thăm Ta, Ta ngục tù các ngươi đă đến với Ta’ (Mt 25:35-37). Đoạn Phúc Âm này không phải chỉ là một lời mời gọi làm việc bác ái thôi, mà c̣n là một chương sách về Kitô học chiếu lên một tia sáng cho thấy mầu nhiệm Chúa Kitô. Căn cứ vào những lời ấy, không là ǵ khác ngoài giáo huấn chính truyền của ḿnh, Giáo Hội đă đo lường ḷng trung thành của ḿnh với tư cách ḿnh là Phu Nhân của Chúa Kitô” (đoạn 49.1).

 

“Chúng ta phải chắc một điều là t́nh yêu của chúng ta không được loại trừ một ai, v́ ‘qua việc nhập thể của ḿnh, Con Thiên Chúa đă hiệp nhất bản thân Người một cách nào đó với hết mọi người’ (Hiến Chế Gaudium et Spes, 32). Tuy nhiên, những lời minh bạch của Phúc Âm đă nhắc cho chúng ta nhớ rằng, Chúa Kitô hiện diện đặc biệt nơi người nghèo, và bởi thế Giáo Hội cần phải tỏ ra ưu ái họ. Mối ưu ái này là chứng từ cho thấy bản tính là t́nh yêu của Thiên Chúa, cho thấy việc quan pḥng và ḷng thương xót của Ngài, và lịch sử, một cách nào đó, vẫn c̣n cho thấy đầy những mầm mống của Vương Quốc Thiên Chúa, được chính Chúa Giêsu gieo văi khi Người c̣n sống trên trần gian, thời gian Người đă làm thỏa đáng tất cả những ai đến với Người v́ nhu cầu về tinh thần cũng như vật chất” (đoạn 49.2).

 

“Trong thời đại của chúng ta đây, có rất nhiều nhu cầu cần đến việc những người Kitô hữu tỏ ra thương cảm đáp ứng. Thế giới chúng ta hiện sống đang tiến vào một tân thiên kỷ mang nặng những nghịch thường đối với một t́nh trạng tiến bộ về kinh tế, văn hóa và kỹ thuật, một t́nh trạng tiến bộ mang lại những cơ hội lớn lao cho một số ít người may mắn, trong khi đó lại bỏ rơi cả triệu triệu người khác, chẳng những ở ngoài ŕa tiến bộ mà c̣n ở trong những hoàn cảnh sống c̣n xa mức tối thiểu xứng với phẩm vị làm người nữa. Cho đến ngày hôm nay làm sao lại c̣n có thể xẩy ra được cảnh con người chết đói? Dốt nát? Thiếu cả nhu cầu căn bản nhất về y tế? Không có lấy một mái nhà để ở?” (đoạn 50.1).

 

“Ngoài những h́nh thức nghèo khổ vẫn có từ trước tới nay, nếu chúng ta nghĩ đến những kiểu nghèo khổ mới mẻ hơn, chúng ta sẽ thấy vô khối cảnh bi thảm của t́nh trạng nghèo khổ nữa. Những kiểu nghèo khổ mới này thường xẩy ra nơi những lănh vực và nhóm người dồi dào về tài chính song lại bị đe dọa bởi thất vọng v́ thiếu mất ư nghĩa của cuộc đời, ở việc nghiện ngập, ở nỗi lo sợ bị bỏ rơi trong tuổi già và lúc bệnh nạn ốm đau, ở t́nh trạng sống bên lề xă hội hay bị xă hội kỳ thị. Trước t́nh trạng này, Kitô hữu phải biết tỏ ra tác động chứng tỏ ḿnh tin vào Chúa Kitô, bằng việc nhận ra tiếng của Người kêu cầu giúp đỡ vang lên từ giới nghèo ấy. Nghĩa là chúng ta chẳng những phải thực hiện truyền thống bác ái qua nhiều cách thức khác nhau của hai ngàn năm trước đây, mà ngày nay chúng ta c̣n cần có thêm nguồn trợ giúp hơn thế nữa. Lúc này là thời điểm cho một cuộc ‘sáng tạo’ mới trong việc thi hành đức bác ái, chẳng những bằng cách bảo đảm việc giúp đỡ làm sao cho có kết quả, mà c̣n bằng việc xích lại gần hơn với những ai sầu khổ, với bàn tay cứu trợ không phải giơ ra để bố thí song là để chia sẻ giữa anh chị em với nhau” (đoạn 50.2).

 

“Thế nên, chúng ta phải làm sao cho người nghèo khổ cảm thấy tự nhiên như ở nhà của họ nơi mọi cộng đồng Kitô hữu. Đường lối này chẳng lẽ không phải là cách tŕnh bày cao cả nhất và hữu hiệu nhất tin mừng về Vương Quốc Thiên Chúa hay sao? Thiếu h́nh thức truyền bá phúc âm hóa bằng đức bác ái này, và thiếu chứng từ về đức khó nghèo Kitô giáo, th́ việc loan báo Phúc Âm, một việc tự ḿnh đă là một h́nh thức căn bản của đức bác ái, sẽ dễ bị hiểu lầm hay bị dập vùi dưới ḷng đại dương của ngôn từ là những ǵ hằng ngày làm chúng ta nhấp nhô trong một xă hội đầy những phương tiện truyền thông ngày nay. Đức bác ái tác hành bảo đảm tính cách hiệu năng chắc chắn cho đức bác ái rao giảng” (đoạn 50.3).

 

Qua đoạn tông thư 49 và 50 trên đây, Vị Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Thắt Kết Đức Ái”, nhất là với thành phần nghèo khó, chẳng những với thành phần nghéo khó về vật chất trong xă hội, một xă hội đang tiến theo chiều hướng toàn cầu hóa thiên về lợi lộc của một thiểu số có cơ may song lại rất bất lợi cho đại đa số kém may mắn hơn, nên đă phải sống trong những hoàn cảnh bất xứng với nhân phẩm làm người, mà c̣n với cả thành phần nghèo khó về tâm linh, một h́nh thức nghèo khó mới mẻ ngày nay ở nơi chính những chỗ sung túc về vật chất; tuy nhiên, việc “thắt kết đức ái” với cả hai thành phần nghèo khó về vật chất lẫn tâm linh này chẳng những phải được tỏ ra ở việc cứu trợ họ một cách thỏa đáng nhu cầu của họ, mà c̣n ở cách cứu trợ họ một cách thân t́nh nữa, đến nỗi làm cho họ cảm thấy vui thỏa trong t́nh nghĩa gia đ́nh với ḿnh.

 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Thách Đố Ngày Nay”

 

·        “Rồi chúng ta làm sao dửng dưng được trước t́nh trạng khủng hoảng về môi sinh, một cuộc khủng hoảng đang khiến những vùng rộng lớn trên trái đất của chúng ta trở thành bất khả cư ngụ và nguy hiểm cho nhân loại? Hay dửng dưng trước những vấn đề ḥa b́nh rất thường bị chập chờn đe dọa bởi những cuộc chiến thê thảm? Hoặc dửng dưng trước t́nh trạng khinh thường các quyền làm người căn bản của nhiều người, nhất là của trẻ em? Hết mọi tấm ḷng của người Kitô hữu phải nhậy cảm đối với vô số những trường hợp khẩn trương này” (đoạn 51.1).

 

“Cần phải đặc biệt chú trọng đến một số khía cạnh nơi sứ điệp nồng cốt của Phúc Âm thường ít được hiểu đứng đắn, thậm chí c̣n muốn gạt bỏ sự có mặt của Giáo Hội nữa, thế nhưng, sứ điệp ấy dầu sao cũng vẫn thuộc về sứ vụ đức ái của Giáo Hội. Tôi có ư nói đến phận vụ phải quyết tâm tôn trọng sự sống của hết mọi người, từ lúc được thụ thai cho đến khi tự nhiên mà chết. Cũng thế, việc phục vụ nhân loại phải khiến cho chúng ta, dù thuận tiện hay không thuận lợi, bảo đảm được rằng những người sử dụng các thứ phát minh tân tiến mới nhất của khoa học, nhất là trong ngành kỹ thuật về sinh vật học, không bao giờ được gạt bỏ những bó buộc căn bản về luân lư, bằng cách nại vào mối đoàn kết mập mờ thường dẫn đến việc phân biệt giữa sự sống này với sự sống kia, cũng như đến việc coi thường phẩm giá của mọi người” (đoạn 51.2).

 

“Để chứng từ Kitô giáo có tác hiệu, nhất là nơi những lănh vực tế nhị và c̣n đang tranh luận này, cần phải tỏ ra nỗ lực trong việc giải thích một cách thích hợp những lư do về những ǵ Giáo Hội chủ trương, nhấn mạnh cho con người thấy rằng Giáo Hội không áp đặt quan điểm thuộc đức tin lên thành phần không phải là tín hữu, mà Giáo Hội chỉ cắt nghĩa và bảo vệ những giá trị được bắt nguồn từ chính bản tính của con người thôi. Có như thế, đức bác ái mới thực sự phục vụ cho văn hóa, chính trị, kinh tế và gia đ́nh, để khắp mọi nơi mới biết tôn trọng những nguyên tắc căn bản là nền móng cho định mệnh của con người cũng như cho nền văn minh mai hậu” (đoạn 51.3).

 

“Hiển nhiên là tất cả những việc này phải được thực hiện theo đường lối riêng biệt của Kitô giáo, ở chỗ, thành phần giáo dân phải đặc biệt hiện diện ở những lănh vực này trong việc sống trọn ơn gọi giáo dân của ḿnh, không bao giờ xoay theo xu hướng muốn biến các cộng đồng Kitô giáo trở thành những cơ quan xă hội thuần túy. Nhất là việc Giáo Hội liên hệ với xă hội dân sự, theo chủ trương của học thuyết xă hội của Giáo Hội, phải tỏ ra biết tôn trọng quyền tự quyết của xă hội này cũng như biết tôn trọng những lănh vực hợp pháp” (đoạn 52.1).

 

“Người ta quá biết rằng Giáo Hội đă dùng quyền giáo huấn của ḿnh, nhất là trong thế kỷ 20, để góp phần vào việc cắt nghĩa những thực tại xă hội theo ư nghĩa Phúc Aâm, cũng như trong việc cống hiến phần đóng góp của ḿnh một cách hợp thời và có phương pháp vào việc giải quyết những vấn đề xă hội, những vấn đề giờ đây đă mặc một tần vóc toàn cầu” (đoạn 52.2).

 

“Khía cạnh luân lư và xă hội của vấn đề đó là yếu tố chính yếu cho chứng từ Kitô giáo, ở chỗ, chúng ta phải loại trừ xu hướng muốn cống hiến cho con người một thứ linh đạo sống tư biệt và cá nhân, một thứ linh đạo hoàn toàn tương phản với những đ̣i hỏi của đức bác ái, loại trừ xu hướng không muốn nói ǵ đến những ư nghĩa hàm xúc của biến cố Nhập Thể, và do đó cũng không đả động ǵ tới niềm trông ngóng cánh chung của Kitô giáo. Niềm trông ngóng cánh chung này một khi làm cho chúng ta nhận thức được tính chất tương đối của lịch sử th́ không có nghĩa là cũng làm cho chúng ta buông xuôi thôi không ‘đi làm’ lịch sử nữa. Giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II ở đây hợp thời hơn bao giờ hết: ‘Sứ điệp Kitô giáo không ngăn cản con người nam nữ trong việc dựng xây thế giới, hay làm cho họ dửng dưng đối với an sinh của đồng loại ḿnh; trái lại, nó thúc buộc họ lại càng phải làm chính những điều này một cách trọn vẹn hơn nữa’ (Hiến Chế Gaudium et Spes, 34)” (đoạn 52.2).

 

Qua đoạn tông thư 51 và 52 trên đây, Vị Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” trước những “Thách Đố Ngày Nay”, như t́nh trạng khủng hoảng môi sinh, t́nh trạng chiến tranh loạn lạc, nhất là t́nh trạng vi phạm nhân quyền, nhất là vi phạm đến quyền lợi về sự sống, ở chỗ, Kitô hữu, nhất là thành phần giáo dân ở ngay trong ḷng đời, phải làm sao giải thích cho con người ngày nay biết những ǵ Giáo Hội Công Giáo truyền dạy không phải là để bắt thành phần khác niềm tin với ḿnh phải tuân giữ, cho bằng để bảo vệ các giá trị nhân bản chân chính, để chẳng những xây dựng một xă hội loài người theo đúng đường hướng của Phúc Âm Chúa Kitô, mà c̣n giải quyết những vấn đề xă hội một cách thích hợp nữa, theo chiều kích Nhập Thể và cánh chung của Kitô giáo.

 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Dấu Hiệu Cụ Thể”

 

·        “Để tỏ dấu hiệu cho việc dấn thân thực hiện đức bác ái và cổ vơ nhân bản này, một việc dấn thân được bắt nguồn từ những đ̣i hỏi cốt yếu nhất của Phúc Aâm, Tôi quyết định là năm Mừng Kỷ Niệm, ngoài vụ mùa dồi dào đă gặt hái được – Tôi có ư nói đến ở đây đặc biệt là việc trợ giúp cho rất nhiều anh chị em nghèo hơn của chúng ta để họ có cơ hội tham dự vào Cuộc Mừng Kỷ Niệm – phải để lại một quĩ đóng góp nào đó có thể nói lên cho thấy nó là hoa trái và là ấn tín của t́nh yêu phát tỏa từ cuộc Mừng Kỷ Niệm. Nhiều người hành hương đă dâng cúng và nhiều nhà làm đầu ngành tài chính đă hợp nhau quảng đại hỗ trợ để giúp vào việc tổ chức xứng đáng cuộc Mừng Kỷ Niệm. Sau khi những chi phí cho năm này được trang trải hết th́ số tiền c̣n lại sẽ được dành vào những công cuộc bác ái. Điều quan trọng là một biến cố tôn giáo chính yếu như thế phải làm sao hoàn toàn không dính dáng ǵ tới bất cứ một h́nh thức kiếm chác tiền bạc nào. Số tiền bạc bất kể là bao nhiêu sẽ được dùng vào việc tiếp tục cái kinh nghiệm thường hay được nhắc lại ngay từ thuở ban đầu của Giáo Hội, lúc mà cộng đồng Giêrusalem đă làm cho những người không phải là Kitô hữu phải cảm kích khi thấy việc người Kitô hữu tự động trao đổi cho nhau những ân huệ được hưởng, thậm chí cho đến độ v́ thành phần nghèo khó họ đă để mọi sự làm của chung (x Acts 2:44-45)” (đoạn 53.1).

 

“Qũi đóng góp được thiết lập này chỉ là một lạch nước nhỏ tuôn chảy vào con sông cả của đức ái Kitô giáo, một con sông đức ái vẫn trôi theo gịng lịch sử. Dù nhỏ song lại là một lạch nước đáng kể, ở chỗ, nhờ Cuộc Mừng Kỷ Niệm, thế giới đă hướng nh́n về Rôma, một Giáo Hội ‘trị v́ trong đức ái’ (x Thánh Ignatiô Antiôkia, Thư gửi Những Người Rôma, Lời Nói Đầu, , ed. Funk, I, 252), và đă mang đến cho Phêrô các tặng vật của họ. Giờ đây, đức ái được tỏ hiện ở ngay chính tâm điểm của Giáo Hội Công Giáo này phải làm sao chảy ngược trở về lại với thế giới bằng dấu hiệu đức ái ấy, thứ dấu hiệu đức ái cần phải là một di sản bền vững và là một ghi niệm mối hiệp thông được cảm nghiệm thấy trong Cuộc Mừng Kỷ Niệm” (đoạn 53.2).

 

Qua đoạn tông thư 53 trên đây, Vị Đại Diện Chúa Kitô muốn chúng ta phải trở thành những “Chứng Nhân T́nh Yêu” bằng việc “Thắt Kết Đức Ái” được tỏ ra qua một “Dấu Hiệu Cụ Thể”, đó là việc Ṭa Thánh thiết lập một quĩ đóng góp, một quĩ do nhiều người công tư đă đóng góp vào việc tổ chức Năm Thánh 2000 song c̣n dư lại để làm việc bác ái sau này, quĩ này như gịng sông đức ái của Giáo Hội liên tục chảy qua gịng lịch sử thế giới từ đầu cho tới nay.

 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Đối Thoại Truyền Giáo”

 

·        “Một thế kỷ mới, một thiên kỷ mới đang mở ra trong ánh sáng của Chúa Kitô. Thế nhưng, không phải là tất cả mọi người đều có thể thấy được ánh sáng này. Việc chúng ta làm là một việc làm tuyệt vời và gay go để trở nên ‘phản chiếu’ của ánh sáng này. Đó là một thứ mầu nhiệm của vầng trăng mysterium lunae, một mầu nhiệm được các Giáo Phụ (chẳng hạn Thánh Aâu Quốc Tinh: Enarrationes in Psalmos, 10, 3: CCL 38, 42) chiêm ngắm rất nhiều, những vị đă sử dụng h́nh ảnh này để nói lên cho thấy việc Giáo Hội lệ thuộc vào Chúa Kitô là Vầng Dương chiếu ánh sáng được phản ánh nơi Giáo Hội. Đó chính là cách diễn tả những ǵ chính Chúa Kitô nói khi Người xưng ḿnh là ‘ánh sáng thế gian’ (Jn 8:12) và xin các môn đệ của Người phải là ‘ánh sáng thế gian’ (Mt 5:14)” (đoạn 54.1).

 

“Đây là một việc làm chúng ta choáng váng nếu chúng ta xét đến nỗi yếu hèn của con người chúng ta, một nỗi yếu hèn rất hay làm cho chúng ta trở thành mờ mịt và đầy tăm tối. Thế nhưng, nó lại là công việc chúng ta có thể thực hiện được, nếu chúng ta biết hướng về ánh sáng của Chúa Kitô, và mở ḷng ḿnh ra cho ân sủng là những ǵ làm cho chúng ta trở thành một tạo vật mới” (đoạn 54.2).

 

“Chính trong chiều hướng này mà chúng ta phải để ư đến cuộc thách đố lớn lao trong vấn đề đối thoại liên tôn, một vấn đề đối thoại chúng ta vẫn phải chú trọng tới trong ngàn năm mới, theo đúng giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II (x Tuyên Ngôn Nostra Aetate). Trong những năm sửa soạn cho Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm, Giáo Hội đă t́m cách xây dựng một mối liên hệ cởi mở và trao đổi với các tín đồ của các tôn giáo khác, chứ không phải chỉ có một loạt những cuộc gặp gỡ tiêu biểu đại thể vậy thôi. Cuộc đối thoại trao đổi này phải được tiếp tục kéo dài. Trong chiều hướng đa văn hóa và đa tôn giáo được cho rằng là những ǵ làm nên đặc tính của tân thiên niên kỷ đây, th́ hiển nhiên việc đối thoại trao đổi này sẽ thật là quan trọng, trong việc thiết lập một nền tảng ḥa b́nh vững chắc, cũng như trong việc dẹp bỏ đi cái ám ảnh rùng rợn của những cuộc chiến tranh tôn giáo vẫn thường nhuộm đỏ lịch sử loài người. Danh xưng của một vị Thiên Chúa duy nhất càng ngày càng phải trở thành những ǵ được gọi là một danh xưng ḥa b́nh và là một hiệu triệu ḥa b́nh” (đoạn 55.1).