·        “’Nếu các con yêu thương nhau th́ tất cả mọi người căn cứ vào điều ấy mà nhận biết các con là môn đệ của Thày’ (Jn 13:15). Nếu chúng ta thực sự chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, anh chị em thân mến, th́ việc chúng ta hoạch định chương tŕnh mục vụ phải được chi phối bởi ‘giới răn mới’ mà Người đă ban cho chúng ta: ‘Các con hăy yêu thương nhau như Thày đă yêu thương các con’ (Jn 13:34)” (đoạn 42.1).

“Đó là một lănh vực quan trọng khác cần phải được Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng chú trọng và hoạch định: một lănh vực hiệp thông (koinonia) là hiện thân và cho thấy chính yếu tính của mầu nhiệm Giáo Hội. Hiệp thông là hoa trái và biểu lộ cho thấy mối t́nh yêu xuất phát từ tấm ḷng của Cha Hằng Hữu và được tuôn đổ trên chúng ta nhờ Thần Linh Chúa Giêsu ban cho chúng ta’ (Rm 5:5), để làm cho tất cả chúng ta được ‘đồng tâm nhất trí’ (Acts 4:32). Chính ở tại việc xây đắp mối hiệp thông yêu thương này mà Giáo Hội mới hiện hữu như là một ‘bí tích’, như là ‘dấu hiệu và là dụng cụ của mối hiệp thông với Thiên Chúa cũng như mối hiệp nhất nhân loại’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 1)” (đoạn 42.2).

“Đối với chúng ta những lời của Chúa Kitô về điểm này quá rơ ràng để suy diễn ư nghĩa của những lời Người nói. Cuộc hành tŕnh của Giáo Hội qua gịng lịch sử đă cần đến nhiều sự, cả thế kỷ mới này cũng không phải là ít cần đến những sự ấy; thế nhưng, nếu không có đức ái (agape) th́ tất cả mọi sự chỉ là hư không. Thánh Tông Đồ Phaolô một lần nữa đă nhắc nhở chúng ta trong trong bài ca yêu thương là cho dù chúng ta có nói được các thứ ngôn ngữ của loài người và thiên thần, và cho dù chúng ta có đức tin ‘chuyển dời núi non’ đi nữa mà không có t́nh yêu th́ tất cả chỉ là ‘không’ (x 1Cor 13:2). T́nh yêu thực sự là ‘con tim’ của Giáo Hội, như Thánh Têrêsa Lisieux đă hiểu rất rơ, vị Tôi đă tuyên phong làm Tiến Sĩ Hội Thánh chỉ v́ Ngài đă thông thạo khoa học yêu thương scientia amoris: ‘Con biết Giáo Hội có một Con Tim và Con Tim này bừng cháy Yêu Thương. Con biết rằng chỉ có Yêu Thương mới tác động các chi thể của Giáo Hội sinh hoạt... Con biết rằng Yêu Thương bao gồm tất cả mọi ơn gọi, Yêu Thương là tất cả mọi sự’ (Manuscript B, 3vo: Êuvres complètes – Paris, 1996, p. 226)” (đoạn 42.3).
 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Linh Đạo Hiệp Thông

·        “Việc làm cho Giáo Hội trở thành gia cư và trường học hiệp thông là một thách đố lớn chúng ta phải đối diện trong ngàn năm giờ đây mở màn, nếu chúng ta muốn trung thành với dự án của Thiên Chúa và đáp lại những ước vọng sâu xa nhất của thế giới” (đoạn 43.1).

“Thế nhưng, trong thực hành th́ điều này có nghĩa là ǵ? Cả ở đây nữa, chúng ta có thể sẽ nghĩ ngay đến những việc làm chúng ta cần phải thực hiện, song đó không phải là động lực thôi thúc chúng ta  theo đuổi. Trước khi phác họa một dự án thực tế, chúng ta cần phải phát động linh đạo hiệp thông đă, biến nó trở thành nguyên tắc hướng dẫn việc giáo huấn khi đào tạo giáo dân, khi huấn luyện các thừa tác viên bàn thánh, các thành phần tận hiến cũng như các nhân viên mục vụ, khi xây đắp các gia đ́nh và cộng đồng. Linh đạo hiệp thông trước hết nhắm đến việc tâm hồn biết chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong chúng ta, cũng như biết chiêm ngưỡng ánh sáng của Ba Ngôi chúng ta thấy được phản chiếu trên gương mặt của anh chị em sống chung quanh chúng ta. Linh đạo hiệp thông cũng có nghĩa là lấy đức tin mà nghĩ đến anh chị em chúng ta trong mối hiệp nhất sâu xa của Nhiệm Thể Chúa Kitô như là ‘những người thuộc phần thể của tôi’. Điều này khiến chúng ta có thể chia vui sẻ buồn, có thể biết được họ muốn ǵ và đáp lại nhu cầu của họ, có thể đem đến cho họ mối thân hữu sâu xa đích thực. Linh đạo hiệp thông cũng bao gồm cả việc thấy được những ǵ tốt lành nơi kẻ khác, đón nhận những điều ấy và coi chúng như là tặng ân Thiên Chúa ban, chẳng những như là một tặng ân cho người anh em hay chị em đích thân lănh nhận chúng, mà c̣n là một ‘tặng ân cho tôi’ nữa. Sau hết, linh đạo hiệp thông nghĩa là biết cách ‘dành chỗ’ cho anh chị em của chúng ta, bằng cách ‘mang lấy gánh nặng của nhau’ (Gal 6:2), cũng như bằng cách chống lại các xu hướng vị kỷ là xu hướng hằng liên lỉ làm cho chúng ta thu ḿnh lại và châm ng̣i tranh đoạt, dấu nghề, nghi ngờ và ghen tương. Chúng ta đừng để ḿnh bị ảo tưởng, bởi v́, những cơ cấu hiệp thông bề ngoài sẽ không có lợi ích là bao nếu chúng ta không đi theo linh đạo này. Chúng sẽ trở thành một thứ máy móc vô hồn, trở thành ‘chiếc mặt nạ’ hiệp thông hơn là trở thành phương tiện thể hiện và phát triển hiệp thông” (đoạn 43.2).

“Bởi đó, thế kỷ tới đây sẽ phải chứng kiến thấy chúng ta, hơn bao giờ hết, chú trọng đến việc đề cao và phát triển, theo như những chỉ dẫn chính yếu của Công Đồng Chung Vaticanô II, các thứ diễn đàn và cơ cấu giúp vào việc bảo đảm cũng như duy tŕ mối hiệp thông. Trước hết, chúng ta làm sao có thể không kể đến những công việc đặc biệt giúp cho mối hiệp thông, đó là tác vụ Thừa Kế Thánh Phêrô và gắn liền với tác vụ này c̣n có cả tính cách đoàn thể của hàng giáo phẩm nữa...” (đoạn 44.1).

“Từ Công Đồng Chung Vaticanô II đến nay nhiều điều đă được thực hiện đối với việc cải tiến Ṭa Thánh Rôma, việc tổ chức các Thượng Hội Giám Mục và phần hành của các Hội Đồng Giám Mục. Thế nhưng, chắc chắn vẫn c̣n nhiều sự nữa cần phải làm, để có thể thể hiện tất cả mọi khả năng của những phương tiện hiệp thông này, những phương tiện đặc biệt thích hợp trong ngày hôm nay đây, những phương tiện liên quan đến nhu cầu cần phải đáp ứng đúng lúc và một cách hiệu lực đối với những vấn đề Giáo Hội phải đương đầu ở vào những lúc biến động nhanh chóng này” (đoạn 44.2).

“Phải vun trồng và phát triển mối hiệp thông từng ngày và ở mọi cấp cơ cấu sinh hoạt của mỗi Giáo Hội. Hiệp thông phải là đặc tính rơ ràng ở nơi mọi cấp cơ cấu sinh hoạt này, thể hiện qua những mối liên hệ giữa các vị Giám Mục với nhau, giữa các linh mục và phó tế, giữa Các Vị Mục Tử và toàn thể Dân Chúa, giữa giáo sĩ và Tu sĩ, giữa các hội đoàn và phong trào được hội thánh công nhận...” (đoạn 45.1)
 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Ơn Gọi Khác Biệt”

·        “Một quan niệm như vậy về mối hiệp thông sẽ được gắn liền với khả năng của cộng đồng Kitô hữu trong việc dành chỗ cho tất cả mọi tặng ân của Thần Linh. Mối hiệp nhất của Giáo Hội không có tính cách đồng loạt, mà là một ḥa nhập theo cơ cấu của những khác biệt hợp lư. Nó là một thực tại của nhiều phần tử liên kết lại trong cùng một thân thể duy nhất, Thân Thể Chúa Kitô duy nhất (x 1Cor 12:12). Bởi thế, Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba cần phải khích lệ tất cả mọi người đă lănh nhận phép rửa và thêm sức phải ư thức trách nhiệm chủ động của ḿnh nơi sinh hoạt của Giáo Hội. Cùng với thừa tác vụ thánh, các thừa tác vụ khác, đă được chính thức thiết lập hay vừa được công nhận, mới có thể triển nở cho thiện ích của toàn thể cộng đồng, mới có thể hỗ trợ tất cả mọi nhu cầu của cộng đồng, từ việc dạy giáo lư cho đến việc phụng vụ, từ việc giáo dục giới trẻ cho đến lănh vực hoạt động bác ái bao rộng nhất” (đoạn 46.1).

“Một điều chắc chắn là cần phải tích cực hoạt động, nhất là bằng lời thiết tha nguyện cầu với Vị Chúa của mùa màng (x Mt 9:38), để làm sao có thể phát động ơn gọi làm linh mục và sống đời tận hiến tu tŕ. Đây là một vấn đề đang được quan tâm rất nhiều đối với đời sống của Giáo Hội ở mọi phần đất trên thế giới. Nơi một số xứ sở Kitô giáo cổ truyền, t́nh trạng này đă trở nên thê thảm, v́ hoàn cảnh xă hội đổi thay cũng như v́ khuynh hướng coi thường đạo giáo phát xuất từ một tâm thức hưởng thụ và tục hóa. Cần phải khẩn trương thực hiện một dự án mạnh mẽ về việc phát động ơn gọi, bằng việc liên lạc riêng tư cũng như bằng nỗ lực của giáo xứ, học đường và gia đ́nh trong việc nuôi dưỡng một tâm tư chuyên chú hơn nữa đến những giá trị chính yếu của đời sống. Những việc này sẽ đạt tới thành quả của chúng khi mỗi người biết đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa, nhất là ơn gọi đ̣i phải hoàn toàn hiến bản thân và nghị lực của ḿnh cho Vương Quốc của Thiên Chúa” (đoạn 46.2).

“Từ quan điểm này, chúng ta thấy được giá trị của tất cả mọi ơn gọi khác nữa, những ơn gọi được bắt nguồn từ đời sống mới được lănh nhận nơi Bí Tích Rửa Tội. Nhất là cần phải hoàn toàn nhận thức hơn bao giờ hết ơn gọi đặc biệt của người giáo dân, một ơn gọi ‘t́m kiếm nước Chúa bằng việc tham gia làm các công việc trần thế và bằng việc hoàn thành những việc ấy theo dự án của Thiên Chúa’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 31); họ ‘đóng vai tṛ riêng của ḿnh trong việc thực hiện sứ vụ truyền giáo của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội và trên thế giới..., bằng việc họ hoạt động cho việc truyền bá phúc âm hóa cũng như việc thánh hóa con người’ (Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, 2)” (đoạn 46.3).

“Theo chiều hướng ấy, c̣n một khía cạnh quan trọng khác nữa của mối hiệp thông đó là t́nh trạng nổi lên các h́nh thức hội đoàn, các h́nh thức hội đoàn theo kiểu cổ truyền hơn hay các phong trào hội thánh mới mẻ hơn, những phong trào tiếp tục hiến cho Giáo Hội một thứ sinh lực là tặng ân Chúa ban và thực sự là một ‘mùa xuân Thần Linh’. Dĩ nhiên là các hội đoàn và phong trào này cần phải hoạt động hoàn toàn ḥa hợp với cả Giáo Hội hoàn vũ lẫn Giáo Hội riêng, cũng như phải tuân theo các chỉ thị thẩm quyền của Vị Mục Tử. Thế nhưng, tất cả chúng ta cần phải lưu ư đến lời cảnh giác xác đáng và quyết liệt của Thánh Tông Đồ là ‘hăy chớ dập tắt Thần Linh, đừng coi thường các ơn tiên tri, nhưng hăy cân nhắc mọi sự và hăy giữ lấy những ǵ là tốt lành’ (1Th 5:19-21)” (đoạn 46.4).

“Vào một thời điểm lịch sử như thời điểm hiện nay, cũng cần phải chú trọng đặc biệt đến vấn đề chăm sóc mục vụ gia đ́nh, nhất là vào lúc cơ cấu nồng cốt này lại đang trải qua một cuộc khủng hoảng tràn lan đụng đến tận căn gốc của nó. Theo quan điểm Kitô giáo về gia đ́nh th́ mối liên hệ giữa một người nam và một người nữ, một mối giao kết hỗ tương và trọn vẹn, chuyên nhất và bất khả phân ly, nằm ngay ở trong dự án của Thiên Chúa, bị lu mờ theo gịng lịch sử bởi t́nh trạng ‘cứng ḷng’ của chúng ta, nhưng cũng là những ǵ Chúa Kitô đă đến để phục hồi ánh quang nguyên tuyền của nó, tỏ cho thấy những ǵ Thiên Chúa mong muốn ‘từ ban đầu’ (Mt 19:8). Được nâng lên phẩm vị của một Bí Tích, hôn nhân cho thấy ḿnh là một ‘mầu nhiệm cao cả’ của t́nh yêu phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người (x Eph 5:32)” (đoạn 47.1).

“Về vấn đề này, Giáo Hội không thể thụt lùi trước sức ép của văn hóa, bất kể là những sức ép này có  tràn ngập đến đâu đi nữa, và thậm chí có dữ dằn đến thế nào chăng nữa. Trái lại, cần phải làm sao có thể bảo đảm rằng, được đào tạo theo Phúc Âm hoàn toàn hơn bao giờ hết, các gia đ́nh Kitô hữu sẽ chứng tỏ cho thấy một cách chắc chắn là con người ta có thể hoàn toàn sống đời hôn nhân phù hợp với ư định của Thiên Chúa, cũng như phù hợp với thiện ích đích thực của con người, của đôi phối ngẫu, cũng như của thành phần con cái yếu thế hơn. Chính gia đ́nh phải càng ngày càng ư thức được việc chăm sóc thích hợp với con cái, và đóng vai tṛ chủ động trong Giáo Hội cũng như trên thế giới để bảo toàn các quyền lợi của gia đ́nh” (đoạn 47.2).
 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Tham Gia Đại Kết

·        “Chúng ta phải nói sao đây về công việc khẩn trương đối với vấn đề nuôi dưỡng mối hiệp thông nơi lănh vực đại kết tế nhị? Tiếc thay, vượt qua ngưỡng cửa của một tân thiên niên kỷ mà chúng ta vẫn c̣n mang theo ḿnh cái gia sản buồn thảm của quá khứ. Cuộc Mừng Kỷ Niệm đă đem lại một vài dấu hiệu cho thấy thực sự tiến triển và hy vọng trong vấn đề này, song trước mặt chúng ta vẫn c̣n là một con đường dài phải trải qua” (đoạn 48.1).

“Khi nh́n thẳng vào Chúa Kitô, Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm đă khiến chúng ta thấy được cái ư nghĩa sống động của một Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp nhất. Những ǵ chúng ta tuyên xưng nơi Kinh Tin Kính: ‘tôi tin Giáo Hội duy nhất’ có một nền tảng tối hậu nơi Chúa Kitô là Đấng trong Người Giáo Hội không bị phân chia (x 1Cor 1:11-13). Là Thân Thể của Người, Giáo Hội bất khả phân ly trong mối hiệp nhất là tặng ân Thần Linh. Cái thực tại chia rẽ xẩy ra nơi con cái Giáo Hội diễn tiến ở tầng cấp lịch sử, phát xuất từ nỗi yếu kém của con người được tỏ ra cho thấy khi chúng ta chấp nhận tặng ân này, một tặng ân không ngừng tuôn trào từ Chúa Kitô là Đầu xuống cho Ḿnh Mầu Nhiệm của Người. Lời cầu của Chúa Giêsu trên Căn Thượng Lầu – ‘Như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, để họ cũng được hiệp nhất trong chúng ta’ (Jn 17:21) – vừa là một mạc khải vừa là một nguyện cầu. Lời cầu ấy mạc khải cho chúng ta thấy mối hiệp nhất giữa Chúa Kitô với Chúa Cha như là mạch nguồn của mối hiệp nhất Giáo Hội, và c̣n như là một tặng ân Giáo Hội sẽ tiếp tục nhận lănh nơi Người, cho đến khi đạt thành một cách mầu nhiệm vào lúc tận cùng thời gian. Mối hiệp nhất này được hiện thân cụ thể nơi Giáo Hội Công Giáo, bất chấp những hạn hữu loài người ở các phần thể của Giáo Hội, và đang hoạt động ở những cấp độ khác nhau qua tất cả mọi yếu tố về thánh đức cũng như về chân lư vốn có nơi các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội khác. Là các tặng ân thực sự thuộc về Giáo Hội Chúa Kitô, những yếu tố này dẫn các Giáo Hội ấy tiếp tục tiến đến mối hiệp nhất trọn vẹn” (đoạn 48.2).

“Lời cầu của Chúa Kitô nhắc chúng ta nhớ rằng tặng ân này cần phải được lănh nhận cũng như cần phải được phát triển sâu sa hơn bao giờ hết. Lời nguyện cầu ‘ut unum sint’ ‘cho họ được nên một’ cùng một lúc vừa là một lệnh buộc, một sức mạnh bảo tŕ chúng ta, vừa là một lời trách khéo về t́nh trạng tŕ trệ và khép kín của chúng ta nữa. Chính ở nơi lời nguyện cầu ấy của Chúa Giêsu, chứ không phải do sức riêng của ḿnh, mà chúng ta mới hy vọng rằng, ngay trong gịng lịch sử này, chúng ta sẽ đạt được mối hiệp thông trọn vẹn về h́nh thức giữa tất cả mọi Kitô hữu” (đoạn 48.3).

“Theo chiều hướng của việc chúng ta làm mới lại cuộc hành hương sau năm Mừng Kỷ Niệm, Tôi rất hy vọng nơi các Giáo Hội Đông Phương, và Tôi nguyện cầu để Giáo Hội được hoàn toàn trở lại với việc trao đổi các tặng ân làm phong phú Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất. Chớ ǵ việc hoài niệm về thời gian Giáo Hội c̣n thở bằng ‘cả hai buồng phổi’ thúc giục Kitô hữu Đông phương cũng như Tây phương hăy cùng nhau bước đi trong niềm hiệp nhất của đức tin, cũng như với một ḷng tôn trọng tính cách khác biệt hợp pháp, bằng việc chấp nhận và nâng đỡ nhau như là phần tử của cùng một Thân Thể Chúa Kitô duy nhất” (đoạn 48.4).

“Việc nuôi dưỡng vấn đề đối thoại đại kết cũng phải được thực hiện tương tự như vậy đối với cả anh chị em Anh Giáo Hiệp Thông cũng như với các Cộng Động Giáo Hội Cải Cách nữa. Nhờ ơn Chúa, việc bàn thảo về các vấn đề chính yếu của đức tin cũng như của nền luân lư Kitô giáo, việc hợp tác thực hiện các việc bác ái xă hội, và nhất là việc đại kết cao cả về thánh đức, sẽ không ngừng sinh hoa kết trái. Trong lúc này đây, chúng ta hăy cứ tin tưởng tiếp tục cuộc hành tŕnh của chúng ta, ước mong có một lúc nào đó, cùng với mỗi người và mọi người môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta có thể hợp xướng với tất cả cơi ḷng câu: ‘Anh em xum họp một nhà, bao là tốt đẹp, bao là xướng vui!’ (Ps 133:1)” (đoạn 48.5).
 

“Những Chứng Nhân T́nh Yêu”: “Thắt Kết Đức Aùi

·        “Đức ái thuộc bản tính của Giáo Hội, bắt đầu từ mối hiệp thông nội tại của Giáo Hội, phải biết hướng ngoại qua việc phục vụ đại đồng; đức ái thúc đẩy chúng ta dấn thân yêu thương hết mọi người một cách thực tế và cụ thể. Đây cũng là một khía cạnh phải làm nên đặc tính tỏ tường của đời sống Kitô giáo, của toàn thể việc Giáo Hội hoạt động cũng như của việc Giáo Hội hoạch định về lănh vực mục vụ. Cái thế kỷ và thiên kỷ giờ đây mở màn cần phải thấy, hy vọng c̣n được thấy rơ ràng hơn nữa, việc cộng đồng Kitô hữu dấn thân sâu xa trong việc bác ái đối với thành phần bần cùng nhất. Nếu chúng ta bắt đầu lại bằng việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô, chúng ta phải biết nh́n ngắm Người nơi các gương mặt của thành phần mà chính Người muốn tự đồng hóa với họ: ‘Ta đói bụng các ngươi đă cho Ta ăn, Ta khát nước các ngươi đă cho Ta uống, Ta khách lạ các ngươi đă đón tiếp Ta, Ta trần trụi các ngươi đă mặc cho Ta, Ta đau yếu các ngươi đă viếng thăm Ta, Ta ngục tù các ngươi đă đến với Ta’ (Mt 25:35-37). Đoạn Phúc Âm này không phải chỉ là một lời mời gọi làm việc bác ái thôi, mà c̣n là một chương sách về Kitô học chiếu lên một tia sáng cho thấy mầu nhiệm Chúa Kitô. Căn cứ vào những lời ấy, không là ǵ khác ngoài giáo huấn chính truyền của ḿnh, Giáo Hội đă đo lường ḷng trung thành của ḿnh với tư cách ḿnh là Phu Nhân của Chúa Kitô” (đoạn 49.1).

“Chúng ta phải chắc một điều là t́nh yêu của chúng ta không được loại trừ một ai, v́ ‘qua việc nhập thể của ḿnh, Con Thiên Chúa đă hiệp nhất bản thân Người một cách nào đó với hết mọi người’ (Hiến Chế Gaudium et Spes, 32). Tuy nhiên, những lời minh bạch của Phúc Âm đă nhắc cho chúng ta nhớ rằng, Chúa Kitô hiện diện đặc biệt nơi người nghèo, và bởi thế Giáo Hội cần phải tỏ ra ưu ái họ. Mối ưu ái này là chứng từ cho thấy bản tính là t́nh yêu của Thiên Chúa, cho thấy việc quan pḥng và ḷng thương xót của Ngài, và lịch sử, một cách nào đó, vẫn c̣n cho thấy đầy những mầm mống của Vương Quốc Thiên Chúa, được chính Chúa Giêsu gieo văi khi Người c̣n sống trên trần gian, thời gian Người đă làm thỏa đáng tất cả những ai đến với Người v́ nhu cầu về tinh thần cũng như vật chất” (đoạn 49.2).

“Trong thời đại của chúng ta đây, có rất nhiều nhu cầu cần đến việc những người Kitô hữu tỏ ra thương cảm đáp ứng. Thế giới chúng ta hiện sống đang tiến vào một tân thiên kỷ mang nặng những nghịch thường đối với một t́nh trạng tiến bộ về kinh tế, văn hóa và kỹ thuật, một t́nh trạng tiến bộ mang lại những cơ hội lớn lao cho một số ít người may mắn, trong khi đó lại bỏ rơi cả triệu triệu người khác, chẳng những ở ngoài ŕa tiến bộ mà c̣n ở trong những hoàn cảnh sống c̣n xa mức tối thiểu xứng với phẩm vị làm người nữa. Cho đến ngày hôm nay làm sao lại c̣n có thể xẩy ra được cảnh con người chết đói? Dốt nát? Thiếu cả nhu cầu căn bản nhất về y tế? Không có lấy một mái nhà để ở?” (đoạn 50.1).

“Ngoài những h́nh thức nghèo khổ vẫn có từ trước tới nay, nếu chúng ta nghĩ đến những kiểu nghèo khổ mới mẻ hơn, chúng ta sẽ thấy vô khối cảnh bi thảm của t́nh trạng nghèo khổ nữa. Những kiểu nghèo khổ mới này thường xẩy ra nơi những lănh vực và nhóm người dồi dào về tài chính song lại bị đe dọa bởi thất vọng v́ thiếu mất ư nghĩa của cuộc đời, ở việc nghiện ngập, ở nỗi lo sợ bị bỏ rơi trong tuổi già và lúc bệnh nạn ốm đau, ở t́nh trạng sống bên lề xă hội hay bị xă hội kỳ thị. Trước t́nh trạng này, Kitô hữu phải biết tỏ ra tác động chứng tỏ ḿnh tin vào Chúa Kitô, bằng việc nhận ra tiếng của Người kêu cầu giúp đỡ vang lên từ giới nghèo ấy. Nghĩa là chúng ta chẳng những phải thực hiện truyền thống bác ái qua nhiều cách thức khác nhau của hai ngàn năm trước đây, mà ngày nay chúng ta c̣n cần có thêm nguồn trợ giúp hơn thế nữa. Lúc này là thời điểm cho một cuộc ‘sáng tạo’ mới trong việc thi hành đức bác ái, chẳng những bằng cách bảo đảm việc giúp đỡ làm sao cho có kết quả, mà c̣n bằng việc xích lại gần hơn với những ai sầu khổ, với bàn tay cứu trợ không phải giơ ra để bố thí song là để chia sẻ giữa anh chị em với nhau” (đoạn 50.2).