GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
CHÚA NHẬT 13/8/2006 TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN |
? Ngày của Chúa – Dies Domini: Ngày của Giáo Hội – Dies Ecclesiae - Cộng Đồng Thánh Thể: Tâm Điểm của Chúa Nhật
? Lebanon: “Những Ngày Lịch Sử Cuối Cùng”?: Tình Hình Căng Thẳng giữa Do Thái và Các Nước Ả Rập Hồi Giáo ở Trung Đông
? HÀNH TRÌNH VIỆT NAM (tiếp) - Cải Tiến Việt Nam
Ngày của Chúa – Dies Domini: Ngày của Giáo Hội – Dies Ecclesiae - Cộng Đồng Thánh Thể: Tâm Điểm của Chúa Nhật
Tông Thư Dies Domini của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của văn khố Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_letters/documents/hf_jp-ii_apl_05071998_dies-domini_en.html
(tiếp theo các Chúa Nhật tuần trước)
Sự hiện diện của Vị Chúa Phục Sinh
31. “Thày mãi mãi ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28:20). Lời hứa này của Chúa Kitô sẽ không bao giờ thôi âm vang trong Giáo Hội như là bí mật làm phong phú đời sống của Giáo Hội và là mạch nguồn hy vọng của Giáo Hội. Là ngày Phục Sinh, Chúa Nhật chẳng những là việc tưởng nhớ một biến cố quá khứ, mà còn là một cử hành sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh giữa dân của Người.
Để cho sự hiện diện này được công bố và sống một cách xứng hợp, thành phần môn đệ Chúa Kitô cầu nguyện tư riêng và bề trong tưởng niệm đến sự chết cùng Phục Sinh của Chúa Kitô, một cách thầm kín trong lòng mình mà thôi cũng chưa đủ. Những ai lãnh nhận ân sủng ân sủng phép rửa không được cứu với tư cách cá nhân mà là với tư cách là phần tử của Mình Mầu Nhiệm, trở nên thành phần Dân Chúa (38). Bởi thế, họ cần phải đến với nhau để bày tỏ trọn vẹn chính căn tính của Giáo Hội là ekklesia, tức là cộng đồng được kêu gọi qui tụ lại với nhau bởi Chúa Phục Sinh, Đấng đã hiến sự sống mình “để tái hiệp nhất con cái phân tán của Thiên Chúa lại với nhau” (Jn 11:52). Họ trở nên “một” trong Chúa Kitô (x Gal 3:28) bởi tặng ân Thần Linh. Mối hiệp nhất này trở thành hữu hình khi Kitô hữu qui tụ lại với nhau: chính vào lúc ấy họ mới cảm nghiệm được một cách sống động và chứng thực cho thế giới thấy rằng họ là thành phần dân được cứu chuộc, thành phần đến “từ hết mọi bộ tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia” (Rev 5:9). Cộng đồng môn đệ Chúa Kitô từ đời này đến đời kia làm hiện thực hình ảnh cộng đồng Kitô hữu tiên khởi được Thánh Luca nêu lên như một mô phạm trong Sách Tông Vụ, khi ngài trình thuật rằng thành phần tín hữu tiên khởi lãnh nhận phép rửa “chú tâm đến giáo huấn của các vị tông đồ cũng như đến mối hiệp thông, đến việc bẻ bánh và việc nguyện cầu” (2:42).
Cộng Đồng Thánh Thể
32. Thánh Thể chẳng những là một diễn đạt hết sức rõ ràng về thực tại đời sống của Giáo Hội, mà còn, ở một nghĩa nào đó, “nguồn nước” của Giáo Hội nữa (39). Thánh Thể nuôi dưỡng và hình thành Giáo Hội: “Vì chỉ có một tấm bánh duy nhất, chúng ta tuy nhiều cũng là một thân thể duy nhất, vì chúng ta tất cả đều lãnh nhận một tấm bánh duy nhất” (1Cor 10:17). Vì mối liên hệ sống còn này với bí tích Mình Máu Chúa Kitô mà mầu nhiệm Giáo Hội được nếm hưởng, loan báo và sống động một cách tuyệt vời nơi Thánh Thể (40).
Chiều kích giáo hội nội tại nơi Thánh Thể này được hiện thực ở hết mọi lần cử hành Thánh Thể. Thế nhưng, nó được thể hiện đặc biệt nhất vào ngày toàn thể cộng đồng qui tụ lại để tưởng niệm Việc Chúa Phục Sinh. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo đã trịnh trọng dạy rằng: “Việc cử hành Ngày Của Chúa và Thánh Thể của Người vào Chúa Nhật là tâm điểm của đời sống Giáo Hội” (41).
33. Nơi Thánh Lễ Chúa Nhật, Kitô hữu sống lại một cách đặc biệt mãnh liệt cái cảm nghiệm của các vị Tông Đồ vào buổi tối Phục Sinh được Chúa Sống Lại hiện ra với các vị khi các vị đang qui tụ lại với nhau (x Jn 20:19). Ở một nghĩa nào đó, Dân Chúa ở mọi thời đại đều đã hiện diện nơi hạch nhân nhỏ bé thành phần môn đệ này, thành phần hoa trái đầu mùa của Giáo Hội. Nhờ chứng từ của các vị, mọi thế hệ tín hữu được nghe thấy lời chào của Chúa Kitô, đầy tặng ân bình an của Đấng Thiên Sai, một tặng ân chiếm được bằng máu của Người và được ban tặng cùng với Thần Linh của Người: “Bình an cho các con!” Việc Chúa trở lại với các vị “một tuần sau” (Jn 20:26) có thể được coi như một hình ảnh tiên báo thực sự về việc cộng đồng Kitô hữu qui tụ lại với nhau 7 ngày một lần, vào “Ngày Của Chúa” hay Chúa Nhật, để tuyên xưng đức tin vào sự Phục Sinh của Người cũng như để lãnh nhận phúc lành như Người đã hứa: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Jn 20:29). Mối liên hệ chặt chẽ giữa việc hiện ra của Chúa Phục Sinh và Thánh Thể được gợi lên nơi Phúc Âm Thánh Luca trong câu truyện hai môn đệ đi Emmau, những người môn đệ được Chúa Kitô tiến đến để giúp cho họ hiểu đưoọc các lời Thánh Kinh rồi ngồi vào bàn với họ. Họ đã nhận ra Người khi “Người bẻ bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ” (24:30). Các cử chỉ của Chúa Giêsu trong đoạn trình thuật này là những cử chỉ Người đã làm ở Bữa Tiệc Ly, rõ ràng ám chỉ đến “việc bẻ bánh”, như Thánh Thể đã được thế hệ Kitô hữu tiên khởi gọi như thế.
(còn tiếp vào mỗi Chúa Nhật)
Lebanon: “Những Ngày Lịch Sử Cuối Cùng”?: Tình Hình Căng Thẳng giữa Do Thái và Các Nước Ả Rập Hồi Giáo ở Trung Đông
Tình Hình Căng
Thẳng
giữa
Do Thái và Các Nước
Ả
Rập
Hồi
Giáo ở
Trung Đông
2001 – Sharon và tình trạng bạo động mới: Tổng thống Clinton mãn nhiệm kỳ vào tháng Giêng mà hai phe Do Thái và Palestine vẫn xung khắc nhau. Sau những tháng ngày leo thang bạo động giữa phe Palestine và Do Thái, vị lãnh đạo đảng Likud là Ariel Sharon đã thắng Ehud Barak khít khao vào ngày 6/2. Cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ ngày 11/9 đã làm phát sinh một tiến trình hòa bình mới ở Trung Đông. Thế nhưng tình trạng bạo động lại bùng nổ vào tháng 12, sau những cuộc nổ bom ở Giêrusalem và ở thành phố Haifa ở miền bắc hải cảng Do Thái, làm cho 25 người Do Thái bị thiệt mạng cùng với 3 tay ôm bom tự sát. Những cuộc tấn công này đã khiến cho quân đội Do Thái phải nhắm những mục tiêu Palestine ở vùng Tây Ngạn và giải Gaza, và tình hình bạo loạn mới lại xẩy ra, gây cản trở cho tiến trình hòa bình một lần nữa.
2002 – Bạo Lực gia tăng bất chấp nỗ lực ngoại giao: Tình hình Trung Đông càng trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Các lực lượng Do Thái xâm chiếm các trại tị nạn của người Palestine để truy lùng những gì phe Do Thái gọi là những tay hiếu chiến, trong khi đó xẩy ra vô số cuộc ôm bom tự sát được thực hiện bởi các tổ chức Hamas, Islamic Jihad và Al A qsa Martyrs Brigades. Vua Saudi là Abdullah đã đưa ra một dự án hòa bình, trong đó phe Palestine phải nhìn nhận quyền lợi của phe Do Thái để đánh đổi những ranh giới đã bị phe Do Thái chiếm đóng trước năm 1967. Tứ Khối Trung Đông là Hiệp Chủng Quốc, Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc sau đó đưa ra một dự án ba giai đoạn đề nghị thành lập một quốc gia Palestine và hòa ước tối hậu vào năm 2003. Thế nhưng các viên chức phe Palestine và Do Thái đều không tiến đến bất cứ một đồng ý nào chính yếu cả.
2003 – “Lộ Trình” tiến đến hòa bình ở Trung Đông: Cuộc cách mạng thứ hai tiếp tục xẩy ra với những cuộc ôm bom tự sát ở Tel Aviv và Haifa. Phe Do Thái trả đũa những tay khủng bố Palestine và những nhà của những tay ôm bom tự sát. Thủ Tướng Sharon tái đắc cử vào Tháng Giêng 2003. Đảng Lao Động chống đối không lấy được lòng dân chúng sau khi vị lãnh đạo của đảng này là Amram Mitzna vận động dự án rút các kiều dân Do Thái và các lính Do Thái khỏi Gaza và tái lập việc thương thảo với người Palestine, kể cả với Yasser Arafat.
2004 – Palestine: khủng bố lắng dịu; Do Thái: bức tường rào cản: Hôm Thứ Hai 22/3/2004, mấy chục ngàn người đã tràn ngập đường phố Gaza City để đưa đám ma nhà sáng lập phái Hamas là Sheikh Ahmed Yassin, người bị Do Thái sát hại vào buổi sáng cùng ngày, vị sáng lập viên kiêm lãnh đạo tinh thần cho nhóm khủng bố Hamas được thành lập từ năm 1987. Chính quyền Palestine tuyên bố 3 ngày thương khóc nhân vật là biểu tượng chống Do Thái này. Sau khi vị lãnh tụ của phái Hamas bạo động nhất Palestine bị hạ sát, bên Palestine tự nhiên ít có những hành động khủng bố tấn công Do Thái một cách ào ạt như trước. Thứ Sáu 9/7/2004, tại Hague, tòa án này đã thúc giục Do Thái hãy hủy bỏ bức tường rào cản này đi ở những vùng đất do họ chiếm đóng. Vì bức tường rào cản này vi phạm đến quyền lợi của dân Palestine. Bức tường rào cản này dài 425 dặm, đã được xây dựng từ năm 2002. Ở một số nơi nó chỉ là hàng rào, và ở các nơi khác nó là một bức tường ximăng cốt sắt. Tòa án này nói rằng mặc dù Do Thái có quyền bảo vệ dân chúng của mình, song vẫn không có đủ chứng cớ thuyết phục là bức tường rào cản khủng bố này cần thiết để đạt được “những mục tiêu về an ninh”. Tóm lại, án lệnh kết luận là luật lệ quốc tế buộc Do Thái chẳng những phải ngưng việc xây bức tường rào cản này mà còn phải hủy bỏ công trình hiện tại nữa. Nhà lãnh tụ Palestine là Yasser Arafat 75 tuổi, qua đời vào sáng Thứ Năm 11/11/2004.
2005 – Palestine: ký kết thỏa ứớc; Do Thái: thực hiện thỏa ước: Thật thế, đầu năm 2005 mở ra một chân trời rất rạng ngời cho Thánh Địa khi hai vị lãnh đạo cao cấp của Do Thái là Sharon và tân Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine là Abbas gặp nhau vào ngày 8/2/2005, với những lời tuyên ngôn ngưng chiến và quyết tâm tiến tới hòa bình giữa đôi bên. Hôm Thứ Hai 21/2/2005, ngay sau ngày Bộ Nội Các chấp thuận dự án giải tỏa các vùng dân cư Do Thái ở trên phần đất Palestine Gaza và Tây Ngạn từ năm 1967, Do Thái đã thực sự chính thức trả tự do cho 500 tù nhân Palestine. Thế rồi, bên Do Thái, bất chấp những chống đối nội bộ, cũng đã thực hiện lời hứa quyết rút kui khỏi giải Gaza vào ngày 11-12/9/2005, sau 38 năm chiếm đóng khu vực này, tức từ sau Trận Chiến 7 Ngày năm 1967. Thế nhưng, tiến trình hòa bình như hy vọng đã vươn lên từ đầu năm 2005 sau 8 tháng lầm lì chậm bước đã bắt đầu bị khựng lại vào chiều hôm Thứ Tư 26/10/2005, khi nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo tự nhận mình đã thực hiện cuộc tự sát khủng bố tấn công vào một khu chợ trời, 40 dặm hay 64 cây số ở miền bắc thủ đô Tel Aviv, gây thiệt mạng cho 5 người Do Thái, và làm 28 người bị thương, trong đó có 6 người trọng thương.
2006 – Palestine: một chính trường mới: Vào chính thời điểm, Thứ Tư 25/1/2006, Giáo Hoàng Biển Đức XVI ban hành Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì tại Trung Đông đã diễn ra một cuộc tuyển cử quốc hội, và vào ngày Thứ Năm, 26/1/2006, bầu trời Trung Đông chấn động vì kết quả cho thấy xuất hiện một đảng phát chủ trương bạo động giành được trong tay quyền lực chính trị ở ngay vùng đất vốn đã nóng bỏng suốt cả nửa thế kỷ 20 vừa qua, nhất là từ đầu thiên kỷ thứ ba Kitô giáo. Thật vậy, Đảng Fatah, một đảng nắm quyền hạn từ khi thành lập Thẩm Quyền Palestine là năm 1965, đảng được nhà lãnh đạo Palestine đầu tiên là Arafat sáng lập cho tới khi ông qua đời vào tháng 11/2004, giờ đây đã hết thời. Đảng Hamas là đảng đã tẩy chay cuộc bầu cử năm 1996, trong lần bầu cử đầu năm 2006 này, đã lợi dụng tâm trạng bất mãn đang lan tràn trong dân chúng về những gì bị coi là băng hoại của Thẩm Quyền Palestine và nội bộ đảng Fatah, cùng với tình trạng bất lực của chính quyền trong việc giải quyết vấn đề cho dân chúng Palestine, đã đáng trúng tim đen dân chúng, thành phần muốn thử thay đổi xem tình hình có sáng sủa hơn không.
(bài tiếp: Tình Trạng Xung Đột giữa Do Thái và Nhóm Dân Quân Hồi Giáo Hezbollah ở Lebanon)
HÀNH TRÌNH VIỆT NAM - Cải Tiến Việt Nam
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
(tiếp 8 Thứ Ba, 9 Thứ Tư, 10 Thứ Năm, 11 Thứ Sáu và 12 Thứ Bảy)
Cải Tiến Việt Nam
Cuộc Hành Trình Việt Nam cần phải hướng tới và tiến tới là như thế. Tiến tới một chân trời đầy văn hóa sự sống và văn minh yêu thương. Chứ không phải chỉ thuần túy có dân giầu nước mạnh, chỉ biết có bánh kinh tế mà thiếu lòng đạo hạnh là nền tảng cho mọi liên hệ nhân bản, cơ cấu xã hội và phát triển văn minh.
|
Qua chuyến xuyên Việt 2006, tôi thấy Việt Nam quê hương tôi đang cố gắng vươn mình chỗi dậy, một cách loạng choạng làm sao ấy, cả về ý hệ lẫn kinh tế. Thật vậy, tình hình Việt Nam hiện nay, theo tôi thấy, có thể so sánh với những thứ khách sạn 3 sao tôi trú ngụ từ bắc vô nam. Bề ngoài có vẻ ngon lành lắm. Nhất là đối với thành phần lam lũ trong dân tôi, như thành phần lái xe thồ chực trước khách sạn, mỗi ngày chỉ được khoảng 2 Mỹ kim, làm sao có thể thuê phòng ngủ một đêm 30-40 Mỹ kim. Thế nhưng, với kinh nghiệm đã từng trọ đêm ở các khách sạn cũng 3 sao, trong những chuyến đi hè hằng năm của gia đình, tại Mỹ quốc cũng như hải ngoại, thì hình như bên trong các khách sạn 3 sao ở Việt Nam tôi vẫn còn có những chi tiết “văn minh” chỉ hợp với tập tục Việt Nam, hơn là với thành phần khách du lịch ngoại quốc hay Việt kiều. Mà khách sạn là nơi mở ra để nhắm vào khách du lịch ngoại quốc và Việt kiều hơn là đồng bào trong nước. Ngoài khách sạn ra, kinh nghiệm cho thấy đi đâu lúc nào cũng nên có sẵn giấy vệ sinh trong túi. Bụng dạ Việt kiều thường biến chuyển bất ngờ, vì lạ nước lạ cái. Bất ngờ, có thể phải xót xa vò nhàu cả đến những thứ giấy tờ khá cần thiết, may còn sót trong túi, để giải quyết vấn đề bất đắc kỳ cục.
Cho dù một ngay kia dân tôi có được một thành phần lãnh đạo thiên sai, quê hương tôi vẫn cần phải mất một thời gian không ngắn, mới có thể vượt thoát khỏi cảnh bần cùng hiện nay, mới có thể cải cách xã hội, mới có thể theo kịp nền văn minh thế giới đang càng ngày càng phát triển đến chóng mặt, mới có thể hòa nhập vào xã hội càng ngày càng toàn cầu hóa về kinh tế và truyền thông.
|
Đúng thế, Việt Nam không thể phát triển về kinh tế, nếu không có một hạ tầng cơ sở vững chắc và thuận lợi, thực tế và điển hình nhất là về đường xá. Một Việt Nam phát triển về kinh tế không thể có nhiều xe mô-tô hơn xe ô-tô như hiện nay. Mà càng nhiều ô-tô thì không thể có một hệ thống đường xá mà chỉ cần đám mô-tô chạy cũng đủ nghẹt phố. Chứ chưa nói đến những chỗ đậu xe, thậm chí chưa đủ cho mô-tô bây giờ. Tương lai, một Việt Nam phát triển về kinh tế sẽ là một Việt Nam có những thành phố mới, hoàn toàn mới. Được thiết lập ở những cánh đồng đang được cầy lúa bằng sức người và sức trâu hiện nay. Có những xa lộ xuyên Việt, và có những vòng đai xa lộ bọc quanh mỗi thành phố mới này. Năm Thành phố chính, những thành phố được xếp vào loại cấp một ở Việt Nam hiện nay: miền Bắc có Hà Nội và Hải Phòng, miền Trung có Đà Nẵng, và miền Nam có Thành Phố Sài Gòn / Hồ Chí Minh và Cần Thơ, theo chiều hướng phát triển tung hoành cả xã hội như thế, sẽ phải và cần phải trở thành các trung tâm hành chánh hơn là kinh tế, trở thành những thành phố cổ “có tiếng mà không có miếng”, như một downtown Nữu Ước, Los Angeles, Chicago, Houston, Dallas v.v. ở Hoa Kỳ, những thành phố thường đầy những người anh chị em da mầu nghèo khổ hay homeless, không thể di chuyển ra vùng ngoại ô phồn thịnh.
Cho dù một ngày kia cuộc Hành Trình Việt Nam có bắt đầu khởi hành tiến về chân trời phát triển kinh tế đi nữa, qua việc cố gắng “nâng cấp” hạ tầng cơ sở, thành phần lãnh đạo phục vụ không hưởng thụ nếu có bấy giờ vẫn cần phải cải tổ một guồng máy giáo dục đã bị “xuống cấp” quá cỡ như hiện nay nữa.
|
Nhân chuyến xuyên Việt 2006, tôi ghé thăm các ngôi trường cũ của tôi, trường Lasan Đức Minh Tân Định, và vợ tôi thăm trường cũ của nàng, Regina Pacis ở 42 Tú Xương Sài Gòn. Cả hai trường này còn đó, nhưng đều bị thu hẹp, thật hẹp. Còn may hơn là Đại Học Công Giáo Thụ Nhân Đà Lạt (một đại học bách khoa trước đây, song giờ đây bằng cấp ra trường từ đại học đổi chủ này không có giá trị bằng các đại học chuyên khoa khác), Trường Trung Học Lasan Tabert Sài Gòn (nơi đã đào tạo biết bao nhân tài Việt Nam trước 1975, nơi thành phần tai to mặt lớn đua nhau gửi con đến học), và Trường Trung Tiểu Học Đồng Công Thủ Đức (nơi có một anh hùng phi công Trần Thế Vinh, một văn nhạc sĩ nổi tiếng Hà Thúc Sinh v.v.), những nơi tôi đã có dịp ghé qua, song đã thuộc quyền sử dụng của chính phủ, với những tên tuổi khác.
|
Tại Phan Rang, tôi đã gặp một đại gia đình toàn là giáo viên ở địa phương, trong đó, có một chị mới 55 tuổi đã được cho về hưu, còn anh chồng gần 60 vẫn được tiếp tục dạy. Anh chồng này là hiệu phó của trường anh đã từng là hiệu trưởng trước 1975, xuống làm giáo viên sau năm quốc biến, lại mò lên tới chức hiệu phó cho tới nay, chứ cũng không được hồi chức hiệu trưởng dù có thực lực đi nữa, vì nhất định không chịu ra nhập đảng. Lương tháng mỗi người tương đương với 100 Mỹ kim. Giờ đây, vì không đủ sống, và vì tương lai của các em trong làng, chị đã mở lớp kèm tại nhà cho các em. Các phần tử giáo chức trong gia đình cho biết rằng ngày nay có nhiều “bằng chép” lắm. Tức là bằng được người khác làm hộ, thi giúp. Nói đâu xa, chính trong gia đình này, một người làm giám thị, với cấp bằng được người chị em trong nhà thi cho.
Trong số báo “Công Giáo và Dân Tộc” tháng 7/2006, trong bài “Đạo Đức Xã Hội Suy Đồi? Vì Sao Nên Nỗi”, tác giả Hồ Ngọc Nhuận, cựu sinh viên trường Tabert Sài Gòn, một người không Công Giáo, ở trang 16 đã viết:
“Với một nền đạo đức xã hội ngày nay được báo động đang suy đồi hằng ngày. Bắt đầu từ một nền giáo dục không chỉ là ‘tuột dốc’, như đã từng xẩy ra trong lịch sử, mà là ‘hoàn toàn đổ nát’ (complètement en ruines) như tôi từng nghe nhận xét được lập đi lập lại mấy ngay qua trên vài báo đài nước ngoài.
“Chắc có người nghĩ: lý do, theo tôi, là vì các trường đạo đã bị đóng cửa, và giải pháp, cũng theo tôi, là cho mở lại các trường đạo. Tôi không hẳn nói vậy. Tôi chỉ xin có vài câu hỏi, để học, như sau: Giáo dục là cái gốc của con người, là nền tảng của xã hội. Nếu trong một xã hội mà người lãnh đạo giáo dục liên tục bày ra không thiếu một loại trường nào, kể cả các loại trường không đâu có trên thế giới, và không ai trên thế giới muốn học, nhưng lại loại trừ các trường ‘có đạo’, và bày ra nhiều hình thức gian dối được mặc nhiên hoặc minh thị chánh thức thừa nhận, trong tổ chức, trong học hành, trong thi cử, trong công nhận bằng cấp, kể cả gian lận thành tích các loại, mà người thụ hưởng giáo dục liên tục bị bắt buộc quanh năm chạy trường như ‘chạy chợ’, mà người lo lắng cho sức khỏe tinh thần con cái không thể và không có quyền tự do lựa chọn một trường học phù hợp với nguyện vọng đạo đức của mình… thì nền đạo đức xã hội đó có đi dần đến phá sản hay không?...”
Mối lo âu ‘phá sản’ này, cũng trong cùng tờ nguyệt san trên, trang 10, qua bài “Giáo Dục Đi Về Đâu?”, tác giả Thiện Cẩm đã có những nhận định như thế này:
“Chuyện giáo dục đào tạo ở Việt Nam ‘bốn ngàn năm văn hiến’ này đã từ lâu ‘có vấn đề’. Nhưng trong những ngày gần đây nguy cơ phá sản đã lên tới mức ‘báo động đỏ’, khi báo chí phanh phui những chuyện bê bối nghiêm trọng trong việc tổ chức thi cử… Trước đây đã có chuyện khám phá ra hằng tá tiến sĩ giả…
“Đến chuyện thi cử ngay từ cấp THPT mà đã gian dối như vậy, thử hỏi giá trị đích thực của trình độ giáo dục của thế hệ tương lai sẽ ra như thế nào? Vậy mà chưa từng bao giờ các phụ huynh học sinh phải tốn tiền tốn của cho con em mình đi học đến như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ học sinh phải học hành vất vả quá sức tưởng tượng như thời đại này: học ngày chưa đủ, tranh thủ học đêm; học ở nhà, học ở lớp, học ở nhà thày cô, đến nỗi ngày nay người ta phải đổi câu châm ngôn ‘Tiên học lễ hậu học văn’ thành ‘Tiên học phí, hậu học thêm’! Học như thế, mà nào có giởi thêm đâu, trái lại, thường lại đạt tỉ lệ nghịch…
“Hôm 26-6-2006, khi xem tivi, tôi thấy mấy ông bộ trưởng giáo dục châu Phi sang học hỏi kinh nghiệm giáo dục của Việt Nam, tôi cảm thấy hổ thẹn và tự hỏi: không biết người ta sẽ học hỏi chúng ta được điều gì đây? Chẳng lẽ học được cách viết sách giáo khoa sai, ra đề thi sai, thi cử, cho lên lớp bằng cách nhận tiền hối lộ, hoặc để mặc sinh viên thuê người viết luận án, hay tìm trong đống luận án cũ tồn kho đem ra sào nấu lại qua loa… Tiến sĩ nào mà chẳng là tiến sĩ ‘giấy’! Đèn mình tù mù, leo lét, sao soi sáng được cho người ta!...
“Làm thế nào để phục hồi lại một nền giáo dục xứng đáng với truyền thống của những Lê Qúy Đôn, hay Lương Thế Vinh, Ngô Thời Nhiệm…? Theo tôi nghĩ, vấn đề ở đây, trước hết là vấn đề ‘danh chính ngôn thuận’, nghĩa là: vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha ra cha, mẹ ra mẹ, thầy ra thầy, trò ra trò. Nhưng thể hỏi, trong xã hội ngày càng trở nên giả tạo này, một xã hội mà nhiều giá trị bị đảo lộn, đồng tiền và vật chất đã lên ngôi, nó có quyền lực ghê gớm sai khiến con người, làm cho con người ra mù quáng, quên đi tất cả: chữ hiếu, chữ trung, tình nghĩa vợ chồng, lòng nhân ái đối với mọi người. Vì thế mới có nạn tham nhũng, cửa quyền, cướp đất cướp nhà của dân, xử oan cho người vô tội, cậy chức cậy quyền để buôn lậu, phá rừng… Nếu người lớn chúng ta, nếu người lãnh đạo mà như thế thì làm sao có thể giáo dục con em mình được.
“Khi người ta ăn bớt thép xây dựng cột móng cầu cống và nhà cao tầng, khi người ta lấy tre thay cho sắt để làm trụ mốc bên lề quốc lộ, thì lạ gì mà chẳng có chuyện ‘rút ruột’ trong công việc đạo tạo giáo dục, ăn bớt cái chữ, nhồi nhét những cái khác vào để làm ra những tiến sĩ giả, với những học sinh không cần thi mà vẫn đậu, nhờ tiền mua điểm, mua bằng, hay đơn giản nhở chỉ tiêu cấp trên giao cho trường…”
Hiện tượng giáo dục bị phá sản hiện nay ở Việt Nam cũng là một chứng cớ hiển nhiên và cụ thể cho thấy thật là xác thực cái Ấn Tượng Việt Nam nơi tôi, một Việt Nam như đàn chiên vô chủ, cần phải có một thành phần lãnh đạo hữu hiệu hơn bao giờ hết, khẩn cấp hơn ở đâu hết. Phải chăng hiện tượng giáo dục như đang nhiễm chứng phong cùi này, cần phải được những bàn tay lãnh đạo như Mơi Mậu ở Trại Cùi Di Linh Lâm Đồng chăm sóc?
(mai tiếp: Chân Trời Việt Nam)