|
Thông
Điệp
Caritas In Veritate – Yêu Thương
Trong Sự
Thật
của
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI
Dẫn Nhập
Chương 1: Sứ Điệp của Thông Điệp về Việc Phát Triển của
Các Dân Tộc
Chương 2:
Việc Phát Triển của Con Người trong Thời Đại của Chúng Ta
Chương 3: Tình
Huynh Đệ, Vấn Đề Phát Triển Kinh Tế và Xã Hội Dân Sự
Chương 4:
Việc
Phát Triển
của
Con Người,
Các Quyền
Lợi
và Nghĩa
Vụ, Môi Trường
Chương 6:
Việc Phát Triển của Chư Dân và Vấn Đề Kỹ Thuật
Kết Luận
Chương
Năm
Việc
Hợp
Tác của
Gia
Đình
Nhân Loại
53. Một
trong những
hình thức
sâu xa nhất
của
nghèo khó người
ta có thể
cảm
nghiệm
thấy
đó
là cảnh
cô lập.
Nếu chúng ta nhìn kỹ hơn các loại nghèo khổ khác, bao gồm cả những hình
thức nghèo khổ về vật chất, chúng ta thấy rằng chúng xuất
phát từ
cảnh
cô lập,
từ
tình trạng
không
được
yêu thương
hay từ
những
khó khăn
để
có thể
yêu thương.
Tình trạng
nghèo khổ
thường
được
xuất
phát từ
việc
ruồng
bỏ
tình yêu của
Thiên Chúa, bằng
khuynh hướng
căn
bản
và thảm
thê của
con người
trong việc
khép mình lại,
nghĩ
rằng
tự
mình
đã
đủ
cho mình hay chỉ
là một
sự
kiện
tầm
thường
và phù du, một
“kẻ
lạ”
trong một
vũ
trụ
ngẫu
nhiên.
Con người
trở
nên xa lạ
khi họ
lẻ
loi một
mình, khi họ
tách mình khỏi
thực
tại,
khi họ
không nghĩ
đến
và tin tưởng
vào một
nền
tảng
[125]. Tất
cả
nhân loại
trở
nên xa lạ
khi
đặt
tin tưởng
quá nhiều
vào nguyên những
dự
phóng của
con người,
những
ý hệ
và những
không tưởng
sai lầm
[126]. Ngày nay, nhân loại
trở
nên giao tiếp
với
nhau hơn
trong quá khứ:
Cảm
quan chung về
sự
gần
gũi
nhau này cần
phải
được
biến
đổi
thành mối
hiệp
thông thật
sự.
Việc
phát triển
của
các dân tộc
lệ
thuộc
trước
hết
vào vấn
đề
nhìn nhận
rằng
nhân loại
là một
gia
đình
duy nhất
cùng nhau làm việc
trong mối
hiệp
thông chân thực,
chứ
không phải
chỉ
là một
nhóm của
các chủ
thể
tự
nhiên sống
bên nhau
[127].
Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI ghi nhận rằng “thế giới này đang bị trục trặc vì thiếu
suy nghĩ” [128]. Ngài nêu lên một nhận định, thế nhưng cũng bày tỏ một
ước muốn, đó là cần một đường lối suy nghĩ mới để đạt tới một kiến thức
tốt đẹp hơn về những hàm ý của vấn đề một gia đình duy nhất; việc giao
liên giữa chư dân trên thế giới kêu gọi chúng ta hãy bắt đầu đường lối
mới mẻ này, nhờ đó vấn đề hội nhập là những gì tiêu biểu cho tình đoàn
kết [129] hơn là tình trạng bị trừ khử. Việc suy nghĩ theo kiểu này cần
đến một thẩm định nghiêm cẩn sâu xa hơn về thứ loại của mối liên hệ. Đây
là một công việc không thể đảm nhận bởi một mình các khoa xã hội học, vì
cần có cả sự đóng góp của khoa thần học và siêu hình học nữa, nếu hiểu
một cách thích đáng phẩm vị siêu việt của con người.
Là
một
hữu
thể
có hồn
thiêng, loài người
tạo
vật
được
định
hình nhờ
những
tương
quan liên bản
vị.
Họ
càng sống
đích
thực
những
mối
liên hệ
này thì căn
tính bản
vị
của
họ
càng trưởng
thành. Không phải
là nhờ
ở
việc
cô lập
mà con người
thiết
lập
giá trị
của
mình, mà là nhờ
việc
giao tiếp
mình với
người
khác cũng
như
với
Thiên Chúa.
Thế nên
những mối liên hệ này có một tầm vóc thật quan trọng. Cả về các con
người cũng đúng như thế nữa. Một
thứ
kiến
thức
siêu hình về
các mối
liên hệ
giữa
con người
với
nhau bởi
thế
mang lại
nhiều
ích lợi
cho việc
phát triển
của
họ.
Về vấn đề này, lý trí tìm thấy hứng khởi và hướng đi nơi mạc
khải
của
Kitô giáo, một
mạc
khải
cho thấy
cộng
đồng
nhân loại
không hút mất
cá nhân, bằng
việc
làm tiêu tan
đi
tính cách tự
động
của
họ,
như
từng
xẩy
ra nơi
những
hình thức
khác nhau của
chủ
nghĩa
độc
tài toàn trị,
trái lại
càng coi trọng
họ
vì mối
liên hệ
giữa
cá nhân và cộng
đồng
là một
liên hệ
giữa
một
tổng
thể
này với
một
tổng
thể
khác
[130]. Như một gia đình không nhận chìm đi các căn tính của mỗi phần tử
mình thế nào, và như Giáo Hội hoan hỉ trong mỗi “tạo vật mới” (Gal 6:15;
2Cor 5:17) được Phép Rửa tháp nhập vào Thân Thể sống động của mình, thế
nào, cũng vậy, mối
hiệp
nhất
của
gia
đình
nhân loại
không nhận
chìm những
căn
tính của
các cá nhân, của
các dân tộc
và của
các nền
văn
hóa, nhưng
làm cho chúng càng rõ nét
đối
với
nhau và liên kết
chúng chặt
chẽ
hơn
nơi
tính chất
đa
dạng
hợp
tình hợp
lý của
chúng.
54.
Đề
tài phát triển
có thể
đồng
hóa với
mối
liên hệ
bao gồm
của
tất
cả
mọi
cá nhân và các dân tộc
trong một
cộng
đồng
duy nhất
của
gia
đình
nhân loại,
một
cộng
động
được
xây dựng
một
cách
đoàn
kết
trên nền
tảng
của
các thứ
giá trị
công lý và hòa bình cốt
yếu.
Viễn ảnh này được chiếu giãi một cách mạnh mẽ nơi mối liên hệ giữa các
Ngôi Vị Ba Ngôi trong một Bản Thể duy nhất. Ba Ngôi là một hiệp nhất
tuyệt đối vì ba Ngôi Vị thần linh là một liên hệ thuần túy. Tính chất
trong sáng hỗ tương giữa các Ngôi Vị thần linh là những gì hoàn toàn và
mối liên hệ giữa mỗi Ngôi là những gì trọn vẹn, vì Ba Ngôi tạo nên một
mối hiệp nhất chuyên biệt và tuyệt đối. Thiên Chúa muốn tháp nhập chúng
ta vào thực tại hiệp thông này nữa: “để họ được nên một như chúng ta là
một” (Jn 17:22). Giáo Hội là dấu hiệu và là dụng cụ cho mối hiệp nhất
này [131]. Những mối liên hệ giữa con người qua giòng lịch sử không thể
trở nên phong phú nếu không căn cứ vào kiểu mẫu thần linh này. Trong ánh
sáng của mầu nhiệm được mạc khải về Chúa Ba Ngôi chúng ta đặc biệt hiểu
được rằng việc thực sự cởi mở không có nghĩa là làm mất đi căn tính cá
thể mà là một thứ liên thấu sâu xa. Điều này cũng thấy được từ những
kinh nghiệm chung của con người về yêu thương và sự thật. Như tình yêu
theo bí tích của đôi phối ngẫu liên kết họ một cách linh thiêng thành
“một xác thịt” (Gen 2:24; Mt 19:5; Eph 5:31) và biến cả hai thành một
mối hiệp nhất thực sự và liên hệ thế nào, cũng thế, một cách tương tự,
chân lý liên kết các tinh thần và khiến cho cho các tinh thần này nghĩ
tưởng một cách hòa hợp, bằng cách thu hút những tinh thần này như là một
mối hiệp nhất đối với nó.
55. Mạc
khải
Kitô giáo về
mối
hiệp
nhất
của
gia
đình
nhân loại
bao hàm một
ý nghĩa
siêu hình học
về
“humanum – nhân loại”
là ý nghĩa
chất
chứa
yếu
tố
thiết
yếu
về
liên hệ
tính.
Các nền văn hóa và tôn giáo khác giảng dạy về tình huynh đệ và nền hòa
bình và vì thế góp phần hết sức quan trọng vào việc phát triển toàn vẹn
con người. Tuy nhiên, có một số thái độ về tôn giáo và văn hóa không
hoàn toàn chấp nhận nguyên tắc yêu thương và chân lý, do đó, đi đến chỗ
làm trì trệ, thậm chí làm cản trở việc phát triển đích thực của con
người. Có một số nền văn hóa về tôn giáo trên thế giới ngày nay không
buộc con người nam nữ sống trong mối hiệp thông, mà là chia cắt họ ra để
tìm kiếm phúc hạnh cá nhân, một thứ phúc hạnh làm thỏa mãn những ước
muốn về tâm lý. Ngoài ra, tình trạng đang phát triển “những đường lối”
tôn giáo khác nhau, thu hút những nhóm nhỏ, thậm chí những cá nhân, cùng
với chủ trương hòa đồng tôn giáo, có thể gây ra tình trạng tách biệt và
phân rẽ. Một
tác dụng
tiêu cực
khả
dĩ
của
tiến
trình toàn cầu
hóa
đó
là khuynh hướng
thiên về
thứ
chủ
trương
hòa
đồng
tôn giáo này
[132], bằng
việc
khuyến
khích các hình thức
“tôn giáo”, thay vì mang dân chúng lại
với
nhau, làm cho họ
xa cách nhau và tách họ
khỏi
thực
tại.
Đồng thời cũng có một số truyền thống tôn giáo và văn hóa cứ gắn chặt
với những gì làm cho xã hội bị xương xẩu hóa với các nhóm xã hội cứng
ngắc, với các niềm tin mê hoặc không tôn trọng phẩm giá con người, và
với những thái độ nô dịch cho các quyền lực huyền bí. Trong các bối cảnh
ấy, yêu thương và chân lý khó lòng được thể hiện, và việc phát triển
chân thực bị cản trở.
Đó là lý
do, trong khi thật sự là việc phát triển cần đến các tôn giáo và văn hóa
của những dân tộc khác nhau, thì vấn đề nhận thức cách thích đáng cũng
cần không kém. Tự
do tôn giáo không có nghĩa
là trung lập
về
tôn giáo, cũng
không có nghĩa
là tất
cả
mọi
tôn giáo
đều
bằng
nhau
[133]. Cần phải nhận thức đối với việc đóng góp của các nền văn hóa và
tôn giáo, nhất là về phía những ai nắm quyền lực chính trị, nếu cộng
đồng xã hội muốn được xây dựng trong tinh thần tôn trọng công ích. Việc
nhận thức như thế cần phải căn cứ vào các qui chuẩn bác ái và chân lý.
Vì việc
phát triển
của
các con người
và các dân tộc
đang
gặp
nguy hiểm
mà việc
nhận
thức
này cần
phải
lưu
ý tơiù
nhu cầu
lan tỏa
và gồm
tóm, trong bối
cảnh
của
một
cộng
đồng
nhân loại
thực
sự
toàn cầu.
“Toàn thể
con người
và tất
cả
mọi
người”
cũng
là một
qui chuẩn
để
thẩm
định
các nền
văn
hóa và tôn giáo. Kitô giáo, một
tôn giáo của
một
Vị
Thiên Chúa có dung nhan con người”
[134], chất
chứa
chính cái qui chuẩn
này nơi
nó.
56. Kitô giáo và các tôn giáo khác có thể cống
hiến việc
đóng góp của
mình vào việc
phát triển chỉ
khi nào Thiên Chúa có
được một
chỗ
đứng
trong lãnh vực công chúng, nhất
là liên quan tới
những chiều
kích văn hóa, xã hội,
kinh tế
và
đặc biệt
là chính trị của
lãnh vực công chúng này.
Giáo huấn về
xã hội của
Giáo Hội
được
hình thành
để
đòi
hỏi “vai trò làm công dân” cho Kitô giáo
[135]. Việc chối bỏ quyền tuyên xưng niềm tin của con người nơi công
cộng và quyền làm chứng cho những chân lý của đức tin nơi đời sống chung
gây ra những hậu quả tiêu cực cho việc phát triển chân thực. Việc loại
trừ tôn giáo ra khỏi
quần chúng – và, hoàn toàn ngược lại,
chủ nghĩa
duy bảo thủ
tôn giáo –
đều cản
trở việc
gặp gỡ
giữa những
con người cùng với
các
đóng góp của
họ cho tình trạng
tiến bộ
của con người.
Đời sống quần chúng bị kiệt quệ hứng khởi của mình và chính trị chiếm
vai chủ chốt và trở nên hung hãn. Các thứ nhân quyền có cơ nguy bị coi
thường, hoặc vì chúng bị cướp lột cái nền tảng siêu việt của chúng hay
vì quyền tự do cá nhân không được công nhận. Chủ nghĩa thế tục và chủ
nghĩa bảo thủ loại trừ đi tiềm năng của việc đối thoại tốt đẹp cũng như
việc hợp tác hiệu năng giữa lý trí và niềm tin tôn giáo. Lý trí
bao giờ cũng
cần phải
được
đức
tin thanh tẩy:
điều này cũng
đúng với
cả lý trí về
chính trị,
một thứ
lý trí không
được coi mình là toàn năng.
Về phần mình, tôn giáo bao giờ cũng
cần phải
được lý trí thanh luyện
để cho thấy
bộ mặt
con người chân thực
của nó.
Bất
cứ vấp
gẫy nào xẩy
ra trong cuộc
đối thoại
này thì việc phát triển
của con người
đều
phải trả
một giá khủng
khiếp.
57. Cuộc
đối thoại
mang lại hoa trái giữa
đức tin và lý trí chỉ
có thể làm cho hoạt
động bác ái trở
nên hiệu năng
hơn trong xã hội,
và nó tạo
nên cái cung cách thích
đáng
nhất trong việc
cổ võ việc
hợp tác huynh
đệ giữa
thành phần tín ngưỡng và vô tín ngưỡng nơi
việc họ
cùng nhau dấn thân hoạt
động cho công lý và hòa bình của gia
đình
nhân loại.
Trong Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng Và Hy Vọng, các vị nghị phụ của Công Đồng
chủ trương rằng “thành phần tín ngưỡng và vô tín ngưỡng hầu
như
đồng
loạt chấp
nhận rằng
tất cả
mọi sự
trên thế gian này cần
phải
được
hướng về
con người như
là trung tâm và tột
đỉnh
của chúng”
[136].
Đối với
thành phần tín ngưỡng thì thế
giới này không xuất
phát từ ngẫu
nhiên mù quáng hay từ cái hết
sức thiết
yếu mà là từ
dự án của
Thiên Chúa.
Đó là những
gì khiến
cho thành phần tín ngưỡng phải
có nhiệm vụ
liên kết nỗ
lực của
mình với nỗ
lực của
tất cả
mọi con người nam nữ
thiện chí, với
các tín
đồ
thuộc các tôn giáo khác cũng như
với thành phần
vô tín ngưỡng,
nhờ
đó
thế giới
này của chúng ta mới
có thể hiệu
nghiệm
đáp
ứng dự
án thần linh,
ở
chỗ sống
với nhau như
là một gia
đình
dưới ánh mắt
trông coi của
Thiên Chúa.
Một biểu lộ đặc biệt của đức bác ái và một qui chuẩn hướng dẫn cho việc
hợp tác huynh đệ giữa thành phần tín ngưỡng và vô tín ngưỡng thật sự là
nguyên tắc phụ trợ [137], một thể hiện quyền tự do bất khả tách lìa của
con người. Việc phụ
trợ trước
hết và trên hết
là một hình thức
trợ giúp cho con người nhờ
sự tự
động của
các cơ cấu
trung gian.
Việc trợ giúp như thế được cống hiến khi cá nhân con người hay các nhóm
người không thể tự mình hoàn thành một điều gì đó, và bao giờ nó cũng
nhắm đến chỗ giải phóng họ, vì nó nuôi dưỡng tự do cùng với việc tham dự
nhờ ở chỗ họ lãnh nhận trách nhiệm. Việc phụ
trợ tỏ
ra tôn trọng phẩm
vị cá nhân khi nhìn nhận
nơi con người này một
chủ thể
bao giờ cũng
có khả năng
cống hiến
một cái gì
đó
cho người khác. Khi coi tính cách hỗ tương
như tâm
điểm của
những gì phải
là một con người, sự
phụ trợ
là một kháng tố
hiệu nghiệm
nhất chống
lại với
bất cứ
hình thức nào của
trạng thái an sinh gồm
tóm mọi sự.
Nó có
thể chú trọng tới cả vấn đề phác họa những dự án đa diện – vì thế chú
trọng tới tính chất đa dạng của chủ thể – cũng như tới việc điều hợp của
các dự án ấy. Thế nên nguyên tắc phụ trợ đặc biệt xứng hợp với việc điều
hành vấn đề toàn cầu hóa và việc điều khiến nó hướng tới việc phát triển
con người chân thực.
Để
đừng sản
xuất ra một
thứ quyền
lực hoàn vũ
nguy hiểm có một
bản chất
chuyên chế bạo
ngược, việc
quản trị
vấn
đề
toàn cầu hóa cần
phải có tính chất
phụ trợ,
một thứ
phụ trợ
có vài tầng lớp
ăn khớp
với nhau và bao gồm
những mức
độ khác nhau có thể
cùng nhau làm việc.
Vấn đề toàn cầu hóa chắc chắn cần đến quyền bính, vì nó động thới vấn đề
của một thứ công ích toàn cầu cần phải được theo đuổi thực hiện. Tuy
nhiên, quyền bính này cần phải tổ chức một cách phụ trợ và phân tầng
[138], nếu không muốn nó vi phạm tới quyền tự do và nếu muốn nó mang lại
thành quả trong thực hành.
58. Nguyên tắc
phụ trợ
cần phải
liên kết chặt
chẽ với
nguyên tắc
đoàn
kết và ngược lại,
vì nguyên tắc trước
mà thiếu nguyên tắc
sau thì mở
đường cho chủ
nghĩa riêng tư
xã hội, và nếu
nguyên tắc
sau thiếu nguyên tắc
trước thì dẫn
lối cho thứ
trợ giúp xã hội
trịch thượng
coi thường thành phần
nghèo nàn thiếu
thốn.
Luật
chung này cũng cần
phải rộng
rãi cứu xét khi giải
quyết những
vấn
đề
liên quan tới việc
trợ giúp phát triển
quốc tế.
Việc trợ giúp như thế, bất kỳ ý định của thành phần cống hiến ra sao,
đôi khi có thể đẩy dân chúng vào tình trạng lệ thuộc, thậm chí còn gây
ra những trường hợp đàn áp ở địa phương và vấn đề bóc lột ở quốc gia
lãnh nhận. Việc
trợ giúp kinh tế,
để thực
sự
đạt
được mục
đích của
nó, không
được theo
đuổi những
mục tiêu phụ.
Nó cần phải
được phân phát với
sự tham gia chẳng
những của
các chính quyền của
những xứ
sở lãnh nhận,
mà còn của
các tác nhân về kinh tế
ở
địa
phương cùng với
thành phần
đi làm văn
hóa trong xã hội
dân sự nữa,
bao gồm cả
các Giáo Hội
địa
phương.
Những chương trình cứu trợ cần phải gia tăng tính chất tham dự và hoàn
trọn từ gốc rễ của nó. Thật vậy, những
nguồn lợi
giá trị nhất
ở các xứ
sở nhận
lãnh trợ giúp phát triển
là những nguồn
lợi về
nhân bản, một
nguồn lợi
chất chứa
cái vốn liếng
thực sự
cần phải
được tích lũy
để bảo
đảm một
tương lai tự
lập thực
sự cho các xứ
sở nghèo khổ.
Cũng cần phải nhớ rằng,
ở lãnh vực
kinh tế, hình thức
chính của
vấn
đề
trợ giúp cần
thiết nơi
các quốc gia
đang
phát triển
đó là hình thức
cho phép và khuyến
khích việc từ
từ thấm
nhập các thứ
sản phẩm
của họ
vào những thị
trường quốc
tế, nhờ
đó những
xứ sở
này có thể hoàn toàn tham phần
vào sinh hoạt
kinh tế quốc
tế.
Trong
quá khứ rất thường xẩy ra là việc viện trợ góp phần tạo nên những thứ
thị trường lẻ đối với các thứ sản phẩm của những xứ sở hiến tặng này.
Điều này xẩy ra vì thường thiếu nhu cầu đích thực đối với những sản phẩm
được đặt ra ấy: vì thế cần phải giúp các xứ sở như thế cải tiến những
sản phẩm của họ và thích ứng một cách hiệu nghiệm hơn với nhu cầu hiện
hữu. Ngoài ra, có những người sợ các hậu quả của việc cạnh tranh nơi
việc nhập cảng các thứ sản phẩm – bình thường là các sản phẩm về nông
nghiệp – từ các quốc gia nghèo về kinh tế. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng
đối với các xứ sở như vậy thì tiềm năng quảng bá những sản phẩm của họ
rất thường là những gì bảo đảm việc tồn tại của họ cả trong trường hợp
ngắn hạn lẫn dài hạn. Vấn
đề
mậu dịch
quốc tế
cách chính
đáng và bình
đẳng nơi
các sản phẩm
về canh nông cần
phải mưu
ích cho hết mọi
người, cả
thành phần cung cấp
lẫn thành phần
tiêu thụ.
Vì lý do này, chẳng
những cần
phải thực
hiện việc
hướng dẫn
thương mại
về vấn
đề sản
xuất loại
này, mà còn thiết lập
những qui
định mậu
dịch quốc
tế
để
nâng
đỡ nó và tài trợ
hơn nữa
cho việc phát triển
để gia tăng
khả năng
sản xuất
của các ngành kỹ
nghệ
ấy.
59. Việc
hợp tác cho vấn
đề phát triển
không
được chỉ
quan tâm tới chiều
kích kinh tế: nó phải
cống hiến
một cơ
hội tuyệt
vời cho việc
gặp gỡ
giữa các nền
văn hóa và dân chúng. Nếu các phía tham gia vào việc cộng
tác
ở về
bên các xứ sở
phát triển về
kinh tế
– như có
khi xẩy ra – không lưu ý tới
căn tính văn
hóa riêng của
mình hay của người
khác, hoặc các thứ
gia trị nhân bản
làm nên căn
tính này, thì họ không thể
tham dự vào một
cuộc
đối
thoại có ý nghĩa
với thành phần
công dân của
các xứ sở
nghèo.
Nếu các xứ
sở nghèo, về
phần mình, lại
cởi mở
một cách thiếu
sáng suốt
và bừa bãi
đối với
hết mọi
thứ
đề
xuất về
văn hóa, họ
sẽ không còn
ở
trong vị thế
đảm nhận
trách nhiệm
đối
với việc
phát triển
đích
thực của
riêng mình nữa
[139]. Các xã hội
tân tiến về
kỹ thuật
không
được xáo trộn
việc phát triển
về kỹ
thuật của
mình với một
thứ nắm
giữ
ưu
thế về
văn hóa, trái lại,
cần phải
tái khám phá nơi mình những
thứ
đức
hạnh thường
bị quên lãng giúp họ
có thể triển
nở khắp
giòng lịch sử
của họ.
Các xã hội
đang tiến
hóa cần phải
trung thành với tất
cả những
gì thực sự
là nhân bản nơi
các truyền thống
của mình, tránh lánh khuynh hướng phủ
lấp mình một
cách tự
động
bằng những
động lực
của một
thứ văn
minh kỹ thuật
được toàn cầu
hóa.
Nơi tất
cả mọi
nền văn
hóa, có những gương
mẫu về
vấn
đề
tụ hội
đạo lý,
một số thì bị cô lập, một số thì tương liên, như
là một thể
hiện của
một bản
tính con người duy nhất
theo ý muốn
của Tạo
Hóa;
truyền thống
của sự
khôn ngoan về
đạo
lý này cho
điều
này như là luật
tự nhiên
[140]. Luật
luân lý phổ
quát này cung cấp một
nền tảng
lành mạnh cho tất
cả mọi
cuộc
đối
thoại về
văn hóa, tôn giáo và chính trị, và nó bảo
đảm rằng
vấn
đề
đa nguyên muôn mặt
nơi tính chất
đa dạng
về văn
hóa là những gì không tách mình ra khỏi việc
cùng tìm cầu chân lý, thiện
hảo và Thiên Chúa.
Bởi thế, việc
gắn bó với
luật lệ
được ghi khắc
nơi tâm can con người là
điều kiện
tiên quyết cho tất
cả mọi
việc hợp
tác xây dựng về
xã hội.
Hết mọi
nền văn hóa đều có những gánh nặng nó cần phải được giải cứu và những
bóng tối nó cần phải được thoát ra.
Đức tin Kitô giáo, nhờ
việc hội
nhập vào các nền
văn hóa và
đồng thời
siêu vượt hơn
chúng, có thể giúp chúng tăng
trưởng trong tình huynh
đệ và kết
đoàn phổ
quát, cho việc
tiến bộ
của vấn
đề phát triển
toàn cầu và cộng
đồng.
60. Trong việc
tìm kiếm những
giải pháp cho cuộc
khủng hoảng
kinh tế hiện
nay, việc cứu
trợ về
phát triển cho các xứ
sở nghèo khổ
cần phải
được coi là phương tiện
hữu hiệu
để tạo
nên thịnh vượng
cho tất cả
mọi người.
Chương trình trợ giúp nào có thể nắm giữ những viễn ảnh tăng trưởng khả
quan như thế – cho dù theo quan điểm của nền kinh tế thế giới – như một
thứ nâng đỡ cho thành phần dân chúng vẫn còn ở trong giai đoạn sơ khởi
hay ban đầu của việc phát triển về kinh tế? Theo quan điểm ấy, các quốc
gia càng phát triển về kinh tế lại càng cần phải làm hết sức mình để
phân phối những phần lớn của tổng sản lượng nội quốc cho việc trợ giúp
phát triển, nhờ đó tỏ ra tôn trọng những trách nhiệm cộng đồng quốc tế
cần phải đảm đương về vấn đề này. Một
trong những cách thức
để thực
hiện
điều này
đó
là kiểm
điểm lại
việc trợ
giúp xã hội cùng với
các chính sách về
an sinh trong nội bộ
của mình,
bằng cách áp dụng nguyên tắc phụ trợ và bằng việc tạo nên các hệ thống
an sinh hội nhập với nhau cách tốt đẹp hơn, với sự tham dự chủ động của
các cá nhân cũng như của xã hội dân sự. Nhờ đó, nó thực sự có thể cải
tiến các thứ dịch vụ xã hội cùng những chương trình an sinh, đồng thời
còn giữ được các nguồn lợi – bằng việc
loại trừ
thừa thãi và loại
bỏ những
thứ
đòi
hỏi gian lận
– là những gì bấy
giờ có thể
sử dụng
vào tình
đoàn kết
quốc tế.
Một hệ thống được ủy thác và lớp lang hơn về tình đoàn kết xã hội, ít
quan lại nhưng vẫn không kém phối trí, sẽ có thể giúp khai thác được
nhiều sinh lực thầm lặng cho lợi ích của tình đoàn kết giữa các dân tộc.
Một
giải pháp khả
dĩ cho vấn
đề trợ
giúp phát triển
đó
là việc áp dụng
một cách hiệu
nghiệm những
gì
được coi là vấn
đề phụ
trợ về
tài chính, cho phép thành phần
công dân quyết
định
cách thức phân phối
một phần
của các thứ
thuế khoá họ
trả cho Chính Quyền.
Nếu nó không thoái hóa thành việc cổ võ cho các thiện ích riêng biệt thì
điều này có thể giúp kích thích các hình thức của tình trạng đoàn kết về
an sinh từ bên dưới, với những thiện ích hiển nhiên ở lành vực đoàn kết
cho việc phát triển nữa.
61. Tình
đoàn
kết rộng
lớn hơn
ở tầm
cấp quốc
tế
đặc
biệt
được
thấy theo chiều
hướng liên tục
cổ võ – thậm
chí giữa cuộc
khủng hoảng
về kinh tế
– phương tiện
nhiều hơn
nữa cho vấn
đề giáo dục,
một vấn
đề giáo dục
đồng thời
cũng là một
điều
kiện tiên quyết
thiết yếu
cho vấn
đề
hợp tác quốc
tế cách hiệu
năng.
Chữ
“giáo dục”
ám chỉ
chẳng những tới việc dạy học ở trường và việc huấn nghệ – cả hai đều là
những yếu tố quan trọng nơi vấn đề phát triển – mà tới
việc hình thành trọn
vẹn con người nữa.
Về vấn
đề này, có một
vấn
đề
cần
được
nhấn mạnh,
đó là,
để giáo dục,
cần phải
biết bản
tính của con người, biết
họ là ai. Vấn
đề càng ngày càng thịnh
hành về
một thứ
kiến thức
có tính chất tương
đối thuyết
về bản
tính này cho thấy các vấn
đề trục
trặc trầm
trọng
đối
với vấn
đề giáo dục,
nhất là vấn
đề giáo dục
về luân lý, gây nguy hiểm cho chiều
kích phổ
quát của vấn
đề giáo dục
về luân lý này. Chiều
theo thứ
chủ nghĩa
tương
đối
này làm cho hết mọi
người trở
thành bần cùng hơn
và tạo ra một
tác dụng tiêu cực
về tính chất
hiệu năng
của việc
trợ giúp cho thành phần
túng thiếu
nhất, thành phần
thiếu chẳng
những phương
tiện kinh tế
và kỹ thuật,
mà còn cả những
phương pháp và nguồn
liệu giáo dục
để trợ
giúp dân chúng nhận ra trọn
vẹn tiềm
năng nhân bản
của họ.
Một
trưng dẫn
về tầm
quan trọng của
vấn
đề
này
được cho thấy
bởi hiện
tượng du lịch
quốc tế
[141], một
thứ du lịch
có thể là yếu
tố chính nơi
việc phát triển
về kinh tế
và tăng trưởng
về văn
hóa, nhưng
đồng
thời nó cũng
có thể trở
thành một cơ
hội khai thác và suy
đồi về
luân lý.
Tình hình hiện nay đang cống hiến những cơ hội đặc biệt cho các khía
cạnh phát triển về kinh tế – tức là vấn đề luân chuyển tiền bạc và việc
xuất hiện của một số kinh doanh địa phương khả quan – cần phải được kết
hợp với những khía cạnh về văn hóa, mà khía cạnh chính là vấn đề giáo
dục. Trong nhiều trường hợp đó là những gì đang xẩy ra, thế nhưng, ở
những trườnmg hợp khác, vấn đề du lịch quốc tế lại có một ảnh hưởng tiêu
cực về giáo dục cả cho thành phần du khách lẫn dân chúng địa phương.
Thành phần dân chúng
địa phương
thường bị
rơi vào những
hình thức
tác hành vô luân hay thậm
chí bại hoại,
như trong trường hợp
của cái
được gọi
là du lịch tính dục,
thứ du lịch
mà nhiều con người bị
hy sinh thậm chí
ở
vào tuổi non dại.
Thật là buồn
khi ghi nhận
rằng hoạt
động này thường xẩy
ra với sự
hỗ trợ
của các chính quyền
địa phương,
với sự
câm lặng từ
những chính quyền
thuộc các xứ
sở gốc
gác của thành phần
du lịch
ấy,
và với việc
đồng lõa của
nhiều thành phần
hành nghề
du lịch.
Thậm chí trong cả những trường hợp ít trầm trọng hơn, việc
du lịch quốc
tế thường
theo
đuổi
một kiểu
mẫu hưởng
thụ và khoái thú,
như là một hình thức thoát ly thực tế được hoạch định một cách thông
dụng của các xứ sở gốc gác, và vì thế không có lợi cho việc gặp gỡ chính
thực giữa con người và văn hóa. Thế nên, chúng ta cần khai triển
một kiểu
du lịch khác có khả
năng cở
võ viện hiểu
biết nhau, mà không lấy
mất yếu
tố nghĩ
ngơi và giải
trí lành mạnh.
Việc du lịch kiểu này cần phải được gia tăng, một phần nhờ việc điều hợp
sát cận hơn với kinh nghiệm có được từ việc hợp tác và kinh doanh quốc
tế cho vấn đề phát triển.
62. Một
khía cạnh khác của
vấn
đề
phát triển toàn vẹn
con người
đáng
lưu ý nữa
đó là hiện
tượng di dân.
Đây là một hiện tượng nổi nang về con số người ở trong cuộc, về những
vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo do nó gây ra, và
về những thách đố ghê gớm nó đòi hỏi các quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang đối diện với một hiện tượng xã
hội đáng làm thành lịch sử của kỷ nguyên này đang cần đến những chính
sách vững mạnh vươn lên về việc hợp tác quốc tế nếu hiện tượng này được
đương đầu một cách hiệu nghiệm. Những chính sách như
thế phải
được bắt
đầu từ
việc chặt
chẽ hợp
tác giữa các xứ
sở gốc
gác của người
di dân với những
xứ sở
họ
đến
ở;
nó cần phải được kèm theo bằng những tiêu chuẩn quốc tế thích đáng có
thể điều hợp những hệ thống luật pháp khác nhau để bảo đảm những nhu cầu
và những quyền lợi của cá nhân thành phần di dân cùng gia đình của họ,
đồng thời cả những nhu cầu và quyền lợi của các quốc gia chủ nhà nữa.
Không một quốc gia nào có thể cho rằng tự mình giải quyết được những vấn
đề ngày nay. Tất cả chúng ta đều chứng kiến thấy được gánh nặng của khổ
đau, của vấn đề chuyển dời và của những ước vọng được ấp ủ nơi đoàn lũ
người di dân. Như mọi người đều biết, khó có thể giải quyết được hiện
tượng này; thế nhưng có một
điều chắc
chắn
đó
là các nhân viên ngoại quốc,
bất chấp
bất cứ
khó khăn nào liên quan tới
vấn
đề
di dân, cũng góp phần
quan trọng
vào việc phát triển
kinh tế của
xứ sở
chủ nhà nhờ
việc lao nhọc
của họ,
không kể những
gì họ làm cho xứ
sở quê hương của
họ bằng
việc gửi
tiền về
nước. Hiển
nhiên là không
được coi thành phần
lao công này như
là một thứ
hàng hóa hay chỉ là một
thứ lực
lượng làm việc.
Bởi thế,
không
được
đối
xử với
họ như
bất cứ
yếu tố
nào khác của việc
sản xuất.
Hết mọi
người di dân là một
con người, thành phần
mà vì như
thế, có những
quyền lợi
căn bản,
bất khả
tách biệt là những
gì cần phải
được mọi
người tôn trọng
trong mọi
hoàn cảnh
[142].
63. Không một
quan tâm nào về các vấn
đề liên quan tới
việc phát triển
mà lại không nhấn
mạnh tới
mối liên hệ
trực tiếp
giữa vấn
đề nghèo khổ
và vấn
đề
thất nghiệp.
Ở nhiều
trường hợp,
vấn
đề
nghèo khổ xuất
phát từ việc
vi phạm
đến
phẩm giá của
việc làm nhân bản,
hoặc vì những
cơ hội
làm việc bị
hạn chế
(bởi vấn đề thất nghiệp hay kém việc làm), hay “vì coi thường việc
làm cùng với các quyền
lợi từ
đó mà ra, nhất
là quyền có
được
một số
lương chính
đáng
và quyền
được bảo
đảm an ninh cho cá nhân của nhân viên cũng
như của
gia
đình của
họ”
[143].
Đó là lý do, vào ngày 1/5/2000, nhân dịp Mừng Đại Năm Thánh của thành
phần Lao Công, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã phổ biến lời kêu gọi về “một liên minh toàn cầu thuận lợi
cho ‘việc làm xứng đáng’” [144], ủng hộ sách lược của Tổ Chức Lao Công
Quốc Tế. Như thế, ngài đã đẩy mạnh mục tiêu này, coi nó như là một ước
vọng của các gia đình trong các xứ sở trên thế giới. Chữ “xứng đáng”
liên quan tới việc làm ở đây nghĩa là gì? Nghĩa là việc làm thể
hiện phẩm
giá thiết yếu
của hết
mọi con người nam nữ
theo bối cảnh
xã hội riêng của
họ:
việc làm
được tự
do chọn lựa,
liên kết một cách hiệu nghiệm thành phần làm việc, cả nam lẫn nữ, với
việc phát triển của cộng đồng họ; việc làm giúp thành phần
làm việc có thể
được tôn trọng
và thoát khỏi
bất cứ
hình thức kỳ
thị nào;
việc
làm giúp gia
đình
họ có thể
thỏa
đáng
các nhu cầu của họ và cung cấp học vấn cho con cái họ, mà không bắt trẻ
em phải tham gia lao công; việc làm giúp các người làm việc
có thể tự
do tổ chức
lại với
nhau hầu phát biểu
tiếng nói của
họ;
việc làm giành đủ chỗ cho việc tái khám phá ra những gốc gác của con
người ở tầm mức cá nhân, gia đình và thiêng liêng; việc làm bảo đảm cho
những ai hồi hưu một tiêu chuẩn sống xứng đáng.
64. Trong khi suy tư về đề tài việc làm cũng thích đáng để nhắc
lại vấn đề quan trọng biết bao đó là những
liên
đoàn lao công – những
tổ chức
luôn
được Giáo Hội
khuyến khích và nâng
đỡ
– cần
phải cởi mở trước những quan niệm đang hiện lên nơi thế giới việc làm.
Bằng cách nhìn tới những quan tâm bao rộng hơn là loại lao động riêng
biệt là những gì từ đó chúng được hình thành, các tổ chức liên hiệp được
kêu gọi giải quyết một số những vấn đề mới nổi lên trong xã hội của
chúng ta: tôi đang nghĩ đến, chẳng hạn, tính chất phức tạp của những vấn
đề được các khoa học gia về xã hội diễn tả về một cuộc
xung khắc giữa
thành phần làm việc
và thành phần
tiêu thụ.
Không nhất thiết phải tán thành luận đề là vấn đề tập trung vào vai trò
của thành phần làm việc đã nhường chỗ cho vấn đề tập trung vào thành
phần tiêu thụ, thì điều này vẫn xẩy ra để tạo nên cho những hiệp hội một
điểm tựa mới trong việc thám hiểm một cách sáng tạo. Môi trường toàn cầu
mà trong đó việc làm diễn tiến cũng đòi hỏi là các liên đoàn lao công
quốc gia, thành phần có khuynh hướng giới hạn mình vào việc bênh vực
những thứ thiện ích cho các phần tử trong danh sách của mình, cần phải
hướng chú ý của mình tới những ai ở ngoài phần tử của mình nữa, đặc biệt
là tới các công nhân ở các xứ sở đang phát triển đang bị vi phạm các
quyền lợi xã hội. Việc bảo vệ cho các người làm việc ấy, một phần chiếm
đạt được nhờ những khởi động nhắm tới các xứ sở gốc gác của họ, sẽ giúp
cho các liên hiệp lao công có thể chứng tỏ những động lực chân thực về
đạo lý và văn hóa trở thành khả dĩ giúp họ, ở một môi trường xã hội và
lao công khác nhau, đóng một vai trò quyết liệt trong vấn đề phát triển.
Giáo huấn truyền
thống của
Giáo Hội
đã
phân biệt rõ ràng giữa
những vai trò và những
phần hành tương
ứng
của các liên hiệp
mậu dịch
và chính trị. Sự
phân biệt này cho phép các liên hiệp nhận
thấy xã hội
dân sự như
là một môi trường thích
đáng
cho hoạt
động cần
thiết của
họ trong việc
bênh vực và cổ
võ lao công, nhất
là thay cho những người
lao
động bị
khai thác và không có ai lên tiếng
cho, thành phần mang thân phận
vô phúc thường
bị coi thường trước
con mắt lơ
là của xã hội.
65. Bởi thế, vấn
đề tài chính
– nhờ những cấu trúc được đổi mới và các phương pháp hoạt động đã được
phác họa sau biến cố nó bị lạm dụng là những gì bắt nền kinh tế thực sự
phải chịu tình trạng tàn phá như thế – giờ đây cần
phải trở
lại với
vai trò làm một thứ
dụng cụ
nhắm vào việc
kiến tạo
mới cho sự
thịnh vượng
và phát triển.
Vì là những
dụng cụ,
toàn thể nền
kinh tế và tài chính, chứ
không phải
chỉ có một
số lãnh vực
nào, cần phải
được sử
dụng một
cách
đạo lý
để
tạo nên những
điều
kiện thích hợp
cho việc phát triển
của con người cũng
như cho việc
phát triển
của các dân tộc.
Thật sự là cần thiết, và ở trong một số trường hợp lại còn bắt buộc,
phải tung ra những khởi động về tài chính nhắm đến chiều kích nhân đạo.
Tuy nhiên, điều ấy cũng không được làm lu mờ đi sự kiện là toàn thể hệ
thống tài chính phải nhắm đến chỗ bảo trì vấn đề phát triển thực sự.
Trước hết, ý hướng làm tốt
không
được coi là không tương xứng
với khả
năng hiệu
lực
để
sản xuất
những sản
vật.
Các chuyên viên tài chính cần
phải tái khám phá ra cái nền tảng
chân thực về
đạo lý nơi
hoạt
động
của mình,
để không lạm
dụng những
dụng cụ
tinh xảo có thể
phản lại
với các ích lợi
của thành phần
giành dụm.
Ý hướng
đúng
đắn, tính chất
liêm khiết,
và việc tìm kiếm
những thành quả
tích cực là những
gì tương hợp
với nhau và không bao giờ
được
tách khỏi nhau.
Nếu tình
yêu khôn ngoan thì nó có thể tìm thấy những đường lối hoạt động hợp với
tính chất thiết thực dự phòng và chính đáng, như được sáng tỏ nơi cách
thức đáng kể của nhiều kinh nghiệm về những tổ chức liên hiệp cho vay
mượn.
Cả qui
luật của lãnh vực tài chính trong việc bảo đảm những bên yếu kém hơn và
làm suy giảm việc đầu tư tích trữ xấu xa, lẫn việc thử nghiệm các hình
thức mới về tài chính, được phác họa để nâng đỡ các dự phóng phát triển,
là những kinh nghiệm tích cực cần phải được khai phá và khuyến khích
thêm, đề cao trách nhiệm của của thành phần đầu tư. Ngoài ra, kinh
nghiệm về
vấn
đề
tiểu tài trợ,
một vấn đề được bắt nguồn từ ý nghĩ và hoạt động của thành phần nhân bản
dân sự – tôi đang đặc biệt nghĩ đến cuộc phát xuất của việc
cầm
đồ
– cần
phải
được
củng cố
và cải tiến.
Đó là tất
cả những
gì cần thiết
hơn vào những
ngày này khi những
khó khăn về
tài chính có thể trở
nên trầm trọng
đối với
nhiều thành phần
yếu kém trong dân chúng, thành phần cần
phải
được
bảo vệ
khỏi nguy cơ
nặng lãi cũng
như khỏi
cảm thấy
thất vọng.
Các phần tử
yếu kém nhất
trong xã hội
cần phải
được giúp
đỡ
để
có thể tự
vệ trước
vấn
đề
nặng lãi, cũng
như thành phần
dân chúng nghèo khổ
cần
được
giúp
đỡ
để
có
được lợi
ích thực sự
từ thứ
vay nhỏ này, nhờ
đó làm suy yếu
đi việc
khai thác khả dĩ
xẩy ra trong hai lãnh vực này.
Vì các quốc
gia giầu thịnh
cũng
đang
trải qua những
hình thức
nghèo khổ mới
mà vấn đề tiểu tài trợ có thể cống hiến việc trợ giúp cụ thể bằng cách
tung ra những khởi động mới và mở ra những lãnh vực mới cho lợi ích của
những yếu tố yếu kém hơn trong xã hội, thậm chí ở vào lúc sa sút chung
về kinh tế này.
66. Tính chất
liên hệ toàn cầu
đã dẫn
đến chỗ
xuất hiện
một thứ
quyền lực
mới về
chính trị, quyền
lực của
thành phần tiêu thụ
cùng với các hiệp
hội của
họ.
Đây là một
hiện tượng
cần phải
được khai triển
hơn nữa,
vì nó chứa
đựng
những yếu
tố tích cực
cần
được
khích lệ cũng
như những
thái quá cần phải
tránh lánh.
Người ta cần
nhận thức
rằng việc
mua bán bao giờ cũng
là một hành
động luân lý, chứ
không chỉ
nguyên kinh tế. Vì thế
thành phần
tiêu thụ có một
trách nhiệm xã hội
đặc biệt,
một trách nhiệm
đi song song với
trách nhiệm
xã hội của
việc kinh doanh.
Thành phần tiêu thụ
cần phải
được tiếp
tục giáo dục
[145] về vai trò thường nhật
của họ,
một vai trò có thể
hành sử bằng
sự tôn trọng
các nguyên tắc
luân lý mà không làm suy giảm
cái hữu lý nội
tại của
kinh tế nơi
tác
động mua bán.
Ở ngành kỹ
nghệ bán lẻ,
nhất là vào những
lúc như
hiện nay, khi mà khả
năng mua bán
đã
trở nên suy yếu
và dân chúng phải
sống thanh
đạm hơn,
cần tìm tòi những
đường lối
khác:
chẳng hạn, những hình thức mua bán hợp tác như việc hợp tác của tiêu thụ
viên là những gì đã từng được thực hiện từ thế kỷ thứ 19, một phần là
nhờ sáng kiến của người Công giáo. Lại nữa, cũng là việc ích lợi trong
việc cổ
võ những
đường
lối mới
để quảng
bá các thứ sản
phẩm xuất
phát từ các miền
bị hất
hủi trên thế
giới, nhờ
đó bảo
đảm cho thành phần
sản xuất
của họ
một cuộc
tái tấu xứng
đáng.
Tuy nhiên, cần phải hội đủ một số điều kiện, đó là thị
trường cần
phải thực
sự là liêm khiết;
thành phần sản xuất, cũng như việc gia tăng các thứ dự trữ lợi lộc của
họ, cũng cần phải huấn luyện cải tiến
về khả
năng và kỹ
thuật chuyên nghiệp;
và sau hết, việc mậu
dịch kiểu
này không
được trở
thành con tin cho các ý hệ
phe
đảng.
Vai trò sâu sắc
hơn
đối
với thành phần
tiêu thụ,
bao lâu chính họ không bị mạo dụng bởi các hiệp hội không thực sự làm
đại diện cho họ, là một
yếu tố
đáng
ước
momg
đối với
việc xây dựng
nền dân chủ
về kinh tế.
67. Trước việc gia tăng không ngớt của tình trạng liên thuộc toàn
cầu, hết
sức cần
đến,
thậm chí ngay cả ở giữa cuộc suy thoái toàn cầu, một cuộc
tái canh tân Tổ Chức
Liên Hiệp Quốc,
cũng như các tổ chức về kinh tế cùng vấn đề tài chính quốc tế, nhờ đó
quan niệm về gia đình của chư quốc có thể chiếm được ý nghĩa thực sự.
Người ta cũng cảm thấy rất cần
phải tìm
được những
đường lối
mới mẻ
để áp dụng
nguyên tắc về
trách nhiệm bảo
vệ
[146]
và về
việc cống
hiến cho các quốc
gia nghèo có
được
một tiếng
nói hữu hiệu
trong việc quyết
định chung.
Điều này dường như cần thiết để có thể tiến tới một lãnh vực chính trị,
pháp lý và kinh tế có thể gia tăng và chỉ vẽ hướng đi đến việc hợp tác
quốc tế cho việc phát triển của tất cả mọi dân tộc trong tình đoàn kết.
Để
điều hành nền
kinh tế toàn cầu;
để phục
hồi các thứ
kinh tế bị
chới với
trước cuộc
khủng hoảng;
để tránh bất
cứ thứ
suy thoái này của cuộc
khủng hoảng
hiện nay cùng với
những chênh lệch
to lớn hơn
từ
đó
mà ra;
để thực
hiện việc
giải giới
toàn vẹn và
đúng
lúc, tình trạng an toàn về
thực phẩm
và hòa bình;
để bảo
đảm việc
bảo vệ
môi trường và chỉnh
đốn việc
di dân:
đối với
tất cả
những việc
làm này, hết sức
cần phải
có một thẩm
quyền chính trị
thế giới,
như vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII đã đề cập
tới ít năm trước đây. Một
thẩm quyền
như vậy
cần phải
được qui
định bởi
luật lệ,
liên lỉ tuân giữ
các nguyên tắc
phụ trợ
và
đoàn kết,
tìm cách thiết lập
công ích
[147], và thực hiện
việc dấn
thân
để bảo
đảm việc
thực sự
phát triển toàn vẹn
con người là những
gì
được tác
động bởi
các thứ giá trị
của bác ái trong chân lý.
Chưa hết, một thẩm
quyền như
vậy cần
phải
được
toàn cầu công nhận
và
được trao thực
quyền
để
bảo
đảm
an ninh cho tất cả
mọi người,
chú ý tới công lý và tôn trọng
các quyền
lợi
[148].
Dĩ
nhiên là nó phải có thẩm
quyền
để
bảo
đảm
việc tuân hợp
với các quyết
định của
nó từ tất
cả mọi
phần tử,
cũng như
với các biện
pháp
điều
hợp
đã
được các diễn
đàn quốc
tế khác nhau.
Thiếu điều này, cho dù tình trạng tiến bộ lớn lao gặt hái được ở một số
những lãnh vực khác nhau, luật lệ
quốc tế
cũng có cơ
nguy bị lệ
thuộc vào mức
độ thăng
bằng về
quyền lực
của những
quốc gia hùng mạnh
nhất.
Việc phát triển toàn vẹn của chư dân và việc hợp tác quốc tế cần đến
việc thiết lập ở một tầm mức rộng lớn hơn nữa việc hướng dẫn quốc tế,
được đánh dấu bằng tính chất phụ trợ, đối với việc điều hành vấn đề toàn
cầu hóa [149]. Cả hai điều này cũng đòi phải thiết lập một trật tự xã
hội nhắm đến chỗ tuân hợp với trật tự về luân lý, với sự liên hệ giữa
lãnh vực luân lý và xã hội, cũng như với mối liên hệ giữa các lãnh vực
chính trị và kinh tế cùng dân sự, như được Hiến Chương Liên Hiệp Quốc
vạch định.
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa
Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20090629_caritas-in-veritate_en.html
(nhöõng choã
ñöôïc in ñaäm leân laø do töï yù cuûa ngöôøi dòch trong vieäc laøm noåi
baät nhöõng ñieåm chính yeáu quan troïng)
|
|