HỘI THÂN HỮU ĐỒNG CÔNG D̉NG MẸ CHÚA CỨU CHUỘC
Non ministrari sed ministrare (Mathêu 20:28)
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN Đ̀NH THỦ, CMC
Hạt Lúa Miến Mục Nát cho Mùa Thánh Đức Việt
DI SẢN MỘT HỘI D̉NG
L |
ịch sử Ḍng Đồng Công gắn liền với lịch sử Đấng Sáng Lập, trải qua những thăng trầm từ ngày phôi dựng đến khi thành Hội Truyền Giáo, từ ngày lập Ḍng trong chiến tranh trải qua thời kỳ lận đận di cư vào Nam Việt, để rồi tại Nam Việt, Ḍng bước dài với 20 năm phát triển. Nhưng, một cái nhưng do Thiên ư nhiệm mầu, biến cố tháng 4 năm 1975 đặt Hội Ḍng vào khúc quanh mới, ghi dấu sự trưởng thành của Hội Ḍng sau nhiều năm phấn đấu và cố gắng. Những ḍng sau đây sơ lược lịch sử Hội Ḍng Đồng Công từ tháng ngày phôi dựng đến biến cố tháng 4 năm 1975.
Ḍng Đồng Công được sáng lập do một linh mục Việt Nam, cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ. Cha Thủ tên thật là Trần Đ́nh Phan, sinh ngày 29-11-1906 tại Đồng Quan, tỉnh Thái B́nh, Bắc Việt. Cậu Phan là con thứ sáu trong số mười người con của cụ ông Đaminh Trần Đ́nh Trí và cụ bà Maria Phạm Thị Thận. Thụ lănh bí tích Thánh Tẩy ngày 8-12-1906, cậu dần lớn lên dưới mái ấm gia đ́nh. Mùa Phục Sinh 1914 cậu được rước lễ lần đầu và chịu phép Thêm Sức. Với trí thông minh sẵn có, tính t́nh ngay thẳng, cương quyết và can đảm, cộng với ḷng đạo đức và sự sùng mến Đức Mẹ cách đặc biệt, năm 1915 cậu Phan dâng ḿnh cho Chúa với mơ ước trở thành một linh mục.
Chín năm sau, tức năm 1924, cậu Phan nhập Tiểu Chủng Viện Ninh Cường, địa phận Bùi Chu. Học xong chương tŕnh tại tiểu chủng viện, năm 1929, cậu bắt đầu học triết tại Bùi Chu rồi tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Định. Sau hai năm triết là hai năm giúp xứ, thầy Phan được chỉ định giúp một họ giáo tân ṭng. Năm 1933, thầy về trường Thần Học tại Giáo Hoàng Chủng Viện Thánh Alberto Nam Định. Bốn năm sau, thầy Phan thụ phong linh mục ngày 22-5-1937 do Đức Cha Đaminh Maria Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục bản quốc đầu tiên của địa phận Bùi Chu. Từ ngày chịu chức linh mục, cha Phan được Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn đổi tên là Trần Đ́nh Thủ. Trong những năm tại chủng viện, cha Thủ sống đời nhiệt thành, khắc khổ và gương mẫu, nên ngay sau khi chịu chức, cha đă được chỉ định làm cha linh hướng kiêm giáo sư triết học tại Đại Chủng Viện Quần Phương, địa phận Bùi Chu.
Tháng Ngày Phôi Dựng
Trong những năm làm cha linh hướng và giáo sư Đại Chủng Viện Quần Phương (1937-1942), nhiều lần cha Thủ đă định đi tu ḍng. Nhưng Thánh Ư Chúa lại khác. Sáng sớm ngày 4-4-1941, lễ Đức Mẹ Đau Thương trong Tuần Thương Khó (theo niên lịch Phụng Vụ cũ), cha được ơn soi sáng lập một tu hội truyền giáo với chủ trương sống đời tận hiến cho Mẹ Maria. Trong thời gian nghiên cứu Giáo Luật và viết Hiến Pháp cho tu hội tương lai, ngày 21-11-1941, cha tận hiến cho Mẹ Maria theo kiểu mẫu Thánh Grignion de Monfort.
Đầu năm 1942, Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn chấp thuận cho cha Thủ từ chức linh hướng và giáo sư đại chủng viện, để giúp việc truyền giáo trong địa phận Bùi Chu, với tư cách là Trưởng Ban Truyền Giáo của địa phận. Đây là cơ hội tốt để cha thu nhận "môn đệ", thiết lập và thí nghiệm tu hội mới. Ngày 2-2-1942, cha khấn tư trọn đời lo việc truyền giáo, và bắt đầu thi hành sứ mệnh Trưởng Ban Truyền Giáo.
Cuối tháng 6-1943, cha Thủ đệ đơn xin nghỉ làm Trưởng Ban Truyền Giáo. Đức Cha đồng ư, và đầu tháng 7-1943 cử cha đi coi xứ Dương A. Dương A chính là "trụ sở đón nhận và huấn luyện các tu sĩ Đồng Công tiên khởi" (Lư Tưởng Đồng Công, tr. 53). Tại Dương A, nhiều thanh niên thiện chí đến xin theo đường lối của cha, đa số là các thầy giảng, các chủng sinh, và các cậu rút khỏi trường Thầy Giảng, chủng viện, và Nhà Đức Chúa Trời. Hồi đó tổ chức của cha chưa có tên và quy luật rơ rệt, người ta chỉ gọi cách vắn tắt, dễ hiểu là "Ḍng Cha Thủ".
Việc đó đến tai Đức Cha, ngài tỏ ra bất b́nh, cấm không cho nhận ai vào "Ḍng Cha Thủ", và bắt giải tán những người đă được nhận. Để vâng lời Đức Cha, cha Thủ chỉ giữ lại vài ba người như kiểu các thầy các cậu mà hồi đó xứ nào cũng có, c̣n bao nhiêu cha gửi đi học tại Hà Nội hoặc tạm lánh lên Phú Thọ, Chapa, Yên Bái làm ăn. Để dập tắt ư định lập ḍng của cha Thủ, cuối tháng 6-1946, Đức Cha ra lệnh đổi cha về xứ Liên Thủy, một xứ sát liền Toà Giám Mục, với chủ ư dễ bề kiểm soát các hành động của cha.
Hội Truyền Giáo Đồng Công
Khi chuyển về Liên Thủy, cha Thủ đă có chừng 20 "môn đệ". V́ xứ Liên Thủy ở ngay bên Bùi Chu, đường lối thuận tiện, nên "Ḍng Cha Thủ" lại lôi kéo sự chú ư của rất nhiều người. Họ đến xin vào "Ḍng" của cha ngày một đông. Trải qua nhiều sóng gió, cộng đoàn bé nhỏ của cha Thủ vẫn được dân chúng quư mến, nhân số ngày càng tăng. Đến năm 1948 đă có chừng 40 người t́nh nguyện theo chí hướng của cha. Một điều lạ là từ trước tới giờ Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn vẫn khăng khăng chống lại ư định của cha Thủ, thế mà ngày 15-8-1948, ngài tự tay viết và kư giấy chính thức nhận cho nhóm người của cha là một Hội Đạo Đức (Pia Unio), và được hoạt động công khai theo Giáo Luật. Trước đó ngài phản đối bao nhiêu, th́ từ sau khi kư giấy công nhận, ngài ủng hộ và bênh vực bấy nhiêu. Nhưng chỉ 100 ngày sau khi kư giấy thành lập Hội Truyền Giáo Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Đức Cha qua đời. Trong thời gian Toà Giám Mục trống ngôi, hội lại trải qua một cơn băo tố dữ dội do Hội Đồng Địa Phận gây nên. Tuy nhiên, việc Chúa đă định làm, dầu giữa gai góc cũng vẫn triển nở xinh tươi.
Việc Đức Cha thành lập Hội Truyền Giáo Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc mở một con đường mới cho tu hội tương lai của cha Thủ, cha liền bắt tay tổ chức hội thành một đoàn thể lâu dài. Hồi đó, hội vẫn chưa có quy luật và tục lệ thành văn, nhưng đời sống cộng đồng được duy tŕ là do sự "trông nhau mà giữ", cha Thủ chỉ hướng dẫn anh em về phương diện tu đức và một vài cách thức cai trị bên ngoài thôi. Sau khi nhập hội được ít lâu, những anh em thiện chí được giới thiệu dâng ḿnh cho Đức Mẹ để bắt đầu thời gian luyện tập, thường kéo dài một năm. Sau thời gian luyện tập này, những anh em đủ điều kiện sẽ khấn tư ba lời khấn: 1) vâng lời Bề Trên 2) để sản vật làm của chung. 3) chuyên lo việc truyền giáo. Lần đầu khấn ba năm rồi khấn trọn đời. Tinh thần Bác Ái và B́nh Dân được đề cao ngay từ thuở đầu. Cha Thủ rất hài ḷng khi được anh em gọi là "Anh Cả" của Đoàn Đồng Công.
Hồi đó có mấy linh mục trong địa phận tán thành đường lối của cha Thủ, đă t́nh nguyện cộng tác xây dựng Hội Truyền Giáo. Số người xin gia nhập ngày càng đông, nên cha chia hội thành nhiều "đội", mỗi đội sống quây quần tại một xứ dưới sự hướng dẫn của một linh mục đồng chí, tức là cha xứ. Tất cả được ba đội, mỗi đội từ 10 đến 20 anh em, không kể "đội mẹ" ở Liên Thủy có chừng trên dưới 40 người.
Tháng 2 năm 1950, Toà Thánh đặt Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám Mục Bùi Chu. Đức Cha nhiệt t́nh ủng hộ công cuộc của cha Thủ. Nhận thấy Hội Truyền Giáo của cha Thủ cần phải trở thành một tu hội theo Giáo Luật để giúp ích cho Giáo Hội mai sau, Đức Cha khuyên cha Thủ nên viết Hiến Pháp để Đức Cha gửi sang Toà Thánh xin phê chuẩn. Hiến Pháp được dịch sang Pháp ngữ rồi La ngữ và trao cho Đức Cha gửi đi. Toà Thánh chấp thuận và kư duyệt y ngày 15-12-1952.
Giai Đoạn Ḍng Thành Lập Theo Giáo Luật
Ngày 2-2-1953 là ngày thành lập Ḍng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Hôm đó Đức Cha Chi gửi văn thư báo tin mừng cho cả địa phận và ban sắc thành lập Ḍng theo Giáo Luật. Ngài đến Liên Thủy chủ lễ khai Ḍng, đồng thời trao áo Ḍng cho 36 tập sinh đầu tiên của Ḍng. V́ nhiều lư do, cha Thủ chưa vào Nhà Tập lớp đầu, nhưng Đức Cha Chi vẫn đặt cha làm Giám Đốc Ḍng Đồng Công. Về sau, Đức Cha đă xin Toà Thánh cho cha Thủ khỏi vào Tập Viện, và được khấn trọn đời ngày 2-2-1955 tại Gia Định, Nam Việt.
Tính đến đầu năm 1953, Ḍng Đồng Công chưa có cơ sở nào khả dĩ làm được tu viện. Mọi sự đều nhờ vào nhà xứ Liên Thủy. Thấy đất chật người đông, Đức Cha và cha Quản Lư địa phận đă thu xếp mua lại khu nhà Phước họ Trung Lễ, sát liền Liên Thủy, và trao cho Đồng Công làm nơi kiến thiết tu viện đầu tiên của Ḍng. Tuy nhiên, khu này cũng chỉ dung nạp được 36 tập sinh và gần 20 đệ tử, nhưng chỉ dùng làm chỗ ngủ và nơi đọc kinh, chứ chưa có nhà bếp, nhà cơm. Những anh em c̣n lại, và mọi tiện nghi khác, đều phải nhờ nhà xứ Liên Thủy.
Ngày 25-3-1954, lớp tu sĩ tiên khởi của Ḍng tuyên khấn lần đầu. Tiếp liền theo lớp khấn này, lớp dự tu thứ hai được giới thiệu với con số 50 người. Theo dự trù, lớp dự tu này sẽ mặc áo Tập vào tháng 9-1954. Thế nhưng, t́nh h́nh đất nước thay đổi, Điện Biên Phủ thất thủ, quân Pháp rút khỏi Bùi Chu, Nam Định. Trước mối đe doạ của Việt Minh, ngày 5-7-1954 cha Thủ tạm giải tán anh em về quê chờ đợi t́nh thế. Hầu hết anh em tản mát mỗi người một phương, nhưng vẫn ôm hoài băo có ngày đoàn tụ. Trên 30 anh em chưa kịp đi th́ ngày 10-7-1954 quân đội Việt Minh phong toả nhà xứ Liên Thủy và bắt 25 anh em biệt giam tại Trà Bắc. Ngày 30-7-1954, mười ngày sau khi kư hiệp định Genève, 25 anh em trên đây mới được trả tự do. Được biết hiệp định Genève chia đôi đất nước và dân chúng được tự do chọn nơi cư trú, cha Thủ quyết định di cư toàn Ḍng vào Nam Việt.
Di Cư Vào Nam
Một điều lạ là trước ngày 3-8-1954 Việt Minh ở Bùi Chu không cấp giấy cho bất cứ ai ra khỏi thôn ḿnh, thế mà từ chiều hôm đó anh em Đồng Công tới xin giấy thông hành, th́ người cán bộ cứ cắm cúi viết giấy cho anh em và không vặn hỏi lư do. Một điều lạ khác là hầu hết anh em giải tán về quê, chiều ngày 3-8-1954 tự nhiên lục tục về Liên Thủy thăm Ḍng, và mọi anh em đều xin được giấy thông hành như vậy. Cầm giấy trên tay anh em chia thành từng nhóm đi Hải Pḥng. Chỉ trong một tuần lễ, hầu hết anh em đă có mặt tại Hải Pḥng, mặc dầu có nhiều anh em ở xa Liên Thủy, không được biết ư định di cư của cha Thủ. Ngày 10-8-1954, anh em xuống tầu ville de Haiphong của hăng Denis Frères vào Nam Việt.
Tầu cập bến Bạch Đằng, Sài G̣n, ngày 13-8-1954. Anh em Ḍng trước tiên tạm cư tại Phú Nhuận rồi Biên Hoà, sau đó chuyển xuống B́nh Đức thuộc tỉnh Mỹ Tho, rồi về Hoà Khánh, Sađéc. Ngày 3-12-1954, Ḍng lại di cư xuống Cù Lao Giêng (xă Tân Mỹ, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên) do lời mời của Đức Cha Chabalier, Giám Mục địa phận Nam Vang. Tại Cù Lao Giêng, lớp Tập thứ hai gồm 41 anh em tận hiến cho Mẹ ngày 15-12-1954. Nhưng Ḍng Đồng Công chỉ ở Cù Lao Giêng được gần một năm. Cuối tháng 11-1955, Ḍng di chuyển về Thủ Đức và bắt đầu một giai đoạn mới.
Hai Mươi Năm Phát Triển Ḍng (1955-1975)
Cho tới lúc này, Ḍng Đồng Công mới thành lập được gần ba năm, nhưng đă trải qua nhiều biến cố quan trọng song song với các biến cố của đất nước. Việc Ḍng định cư tại Thủ Đức ghi dấu đoạn đầu của 20 năm phát triển Hội Ḍng, từ năm 1955 đến năm 1975. Trong 20 năm, Ḍng Đồng Công ngày một phát triển cả về nhân số cả về bề sâu và bề rộng.
Trước hết, xét về nhân số, khi di cư vào Nam Việt toàn Ḍng có chừng 125 anh em, nhưng đến đầu năm 1975, tổng số anh em Ḍng là 624, trong số đó có 177 tu sĩ vĩnh thệ (kể cả 23 linh mục), 91 tu sĩ hạn thệ, 4 tập sinh, 54 cộng sự viên, 281 em đệ tử, và 17 anh em đă qua đời. Cho tới năm 1975, Ḍng Đồng Công chưa bao giờ nghĩ tới việc cổ động ơn thiên triệu, mà hàng năm, số người xin nhập Ḍng vẫn nhiều, trong số đó có cả linh mục và chủng sinh. Thời gian đầu, Đệ Tử Viện chưa được chính thức thành lập, thế mà năm nào cũng có trên 100 đến 200 em xin gia nhập. Những người tu muộn cũng chiếm một phần không nhỏ. V́ ơn kêu gọi đông như vậy, nên mỗi lớp Tập thường có ít nhất trên 30 tập sinh. Tính đến năm 1975, Ḍng có tất cả 11 lớp tu sĩ khấn.
Về bề sâu, Đệ Nhất Đại Công Hội của Ḍng diễn ra hồi tháng 3 năm 1963. Đại Công Hội đă chính thức bầu cử Tổng Giám Đốc của Ḍng, thay vào quyền Giám Đốc vẫn do cha Thủ đảm nhiệm theo sự ủy thác của Đức Cha Chi từ ngày thành lập Ḍng. Toàn thể nghị huynh đă bầu cha Thủ làm Tổng Giám Đốc tiên khởi của Ḍng. Đại Công Hội cũng thảo luận và nghị quyết về những Tục Lệ từ trước vẫn thi hành trong Ḍng và vạch một đường lối đi vào tương lai. Tháng 9 năm 1970, Đệ Nhị Đại Công Hội được tổ chức theo Hiến Pháp Ḍng. Đại Công Hội này đă đồng tâm hợp ư suy tôn Đấng Sáng Lập Ḍng (cha Thủ) làm Tổng Giám Đốc măn đời, cho tới ngày cha cần rút lui để chuẩn bị cho người thay thế cha cai quản Ḍng. Ngoài việc bầu Hội Đồng Tổng Quản mới, Đại Công Hội c̣n soạn thảo và biểu quyết một số quy chế, đồng thời tu chính Hiến Pháp và Tục Lệ cho hợp với thời hậu Công Đồng Vaticanô II. Đại Công Hội cũng tham luận và biểu quyết các chương tŕnh nghị sự có liên quan đến việc cải thiện mọi phần tử Ḍng.
Ḍng Đồng Công là một Ḍng gồm linh mục và tu sĩ, các nhiệm vụ chính trong Ḍng cũng như tại các cơ sở truyền giáo phần lớn đều do các linh mục chỉ huy, nên Ḍng cần có một Học Viện để đào tạo các linh mục. Trong giai đoạn đầu, Ḍng gửi một số anh em học tại Đại Chủng Viện Xuân Bích, Thị Nghè, và Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Sài G̣n. Từ năm 1961, Ḍng được phép lập Học Viện riêng. Mặt khác, để có bằng cấp của Giáo Hội và chính phủ, Ḍng đă gửi một số linh mục du học tại Rôma và nhiều anh em học tại các đại học đạo cũng như đời.
Lớp Thần Học đầu tiên do Ḍng huấn luyện tại Nhà Mẹ ở Nhà Đá B́nh Định Qui Nhơn năm 1966, mà vị Tổng Vụ làm bề trên tổng quyền thay thế ngài thuộc về lớp linh mục 5 người tiên khởi này.
Về bề rộng, trong 20 năm đầu, Ḍng Đồng Công đă có nhiều cơ sở.
Khu Nhà Mẹ thời gian đầu đặt tại Thủ Đức. Đến năm 1963, Ḍng chuyển Nhà Mẹ ra Nhà Đá (thuộc xă Mỹ Hiệp, quận Phù Mỹ, tỉnh B́nh Định). Trung b́nh có trên 100 anh em sống tại Nhà Mẹ. Sau v́ t́nh h́nh chiến tranh, khu Nhà Mẹ lại phải dời về Thủ Đức năm 1974. Cũng tại Thủ Đức, Ḍng c̣n một tu viện lớn dung nạp chừng 70 người. Một Đệ Tử Viện đủ chỗ cho gần 300 em. Trường Trung Tiểu Học và Kư Túc Xá ĐỒNG CÔNG thiết lập từ năm 1956, hàng năm có từ 800 đến trên 1000 học sinh. Một Giáo Sĩ Dưỡng Đường thiết lập từ năm 1957 để đón các cha già yếu về hưu và quư cha muốn có nơi tĩnh tâm thuận tiện một trại nuôi gà hoạt động từ năm 1965 đến 1973, một nhà in cỡ trung b́nh và toà soạn Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ với số độc giả trên 40,000 vào năm 1975.
Tại tỉnh Phước Long, năm 1962, Ḍng lập một nhà ở Đôn Luận. Công việc đang tiến triển th́ chiến tranh lan rộng. Ḍng bó buộc phải tạm bỏ cơ sở này vào năm 1964. Bù vào đó, Ḍng vẫn c̣n một sở nhỏ tại xứ Châu Ninh, quận Bố Đức. Sở này có một linh mục và một số anh em giúp việc trong xứ.
Tại tỉnh B́nh Định, từ năm 1957, Ḍng nhận phụ trách một khu truyền giáo trong địa phận Qui Nhơn tức là khu Mỹ Chánh thuộc quận Phù Mỹ. Ngoài việc rao giảng lời Chúa cho đồng bào tại xă Mỹ Chánh và các xă lân cận, Ḍng c̣n mở trường Trung Học Toàn Mỹ tại Mỹ Chánh dạy miễn phí cho 400 học sinh. V́ t́nh trạng chiến tranh, năm 1964, khu truyền giáo Mỹ Chánh cùng với trường Toàn Mỹ tạm đóng cửa, măi đến năm 1967 mới mở cửa lại. Khi Nhà Mẹ của Ḍng chuyển ra Nhà Đá, Ḍng cũng thiết lập tại đây trường Trung Tiểu Học Đồng Công dạy miễn phí cho 1,000 học sinh. Cũng tại tỉnh B́nh Định, Ḍng c̣n hai cơ sở: một tại Qui Đức thuộc thị xă Qui Nhơn, một ở chính quận Phù Mỹ mỗi cơ sở có thể dung nạp vài ba chục người. Trường Trung Tiểu Học Đồng Công tại Phù Mỹ khai giảng năm 1970 với khoảng 400 học sinh.
Tại tỉnh B́nh Dương, năm 1965, Ḍng lập một tu viện ở xă B́nh Nhâm thuộc quận Lái Thiêu. Tu viện này trước vốn là một nhà Tĩnh Tâm của anh em Ḍng, được thiết lập từ năm 1958. Nhưng năm 1971, Ḍng bán lại cho giáo phận Phú Cường.
Tại thị xă Đà Lạt, năm 1970 Ḍng thiết lập cư xá sinh viên Rạng Đông để giúp các sinh viên nghèo có nơi cư trú theo học đại học Đà Lạt. Năm 1975 có chừng 70 sinh viên sống tại cư xá Rạng Đông. Cạnh đó là một tu xá, nơi cư trú của chừng 20 tu sĩ Đồng Công theo học đại học. Ḍng cũng cho một số tu sĩ giúp Tiểu Chủng Viện Simon Hoà hai đợt (1968-1969, 1972-1974), giúp Đại Học Đà Lạt từ năm 1969, và giúp Cư Xá Sinh Viên Trương Vĩnh Kư từ năm 1972.
Tại tỉnh Lâm Đồng, từ năm 1971 Ḍng lập một tu viện tại Đồng Lạc thuộc quận Di Linh có thể dung nạp chừng 100 anh em. Tu viện này toạ lạc trong một khu đồn điền rộng 47 mẫu tây trồng trà, cà phê, bơ, mít... mà Ḍng đă mua lại của một người Pháp. Ngoài ra, Ḍng c̣n cử một số tu sĩ trông coi và điều khiển hai đồng điền trà, cà phê... thuộc Đại Học Đà Lạt: một tại Đại Nga, gần tỉnh ly?Lâm Đồng, một tại Zdiratô.
Tại tỉnh B́nh Thuận, đầu năm 1974, Ḍng lập một cơ sở ở xă Lương Sơn thuộc quận Hoà Đa, dung nạp chừng 15 anh em, và một trường Trung Tiểu Học dạy miễn phí cho 400 học sinh. Ngoài ra, một đồn điền rộng 100 mẫu tây tọa lạc tại Bầu Ốc đang được khai phá th́ t́nh h́nh đất nước biến chuyển đến hồi nghiêm trọng, mọi hoạt động đều phải bỏ dở. Đầu tháng 4-1975, anh em làm việc tại Lương Sơn phải di tản về miền Nam.
Ḍng Đồng Công đang trên đà phát triển về nhân số, về bề sâu và bề rộng, th́ biến cố tháng 4-1975 đưa Ḍng vào một khúc quanh lịch sử. Trên 170 linh mục, tu sĩ của Ḍng vượt trùng dương về miền vô định. C̣n chừng 150 linh mục, tu sĩ, cộng sự viên, và gần 300 em đệ tử ở lại Việt Nam. Lịch sử Hội Ḍng bắt đầu một chương mới.
Bài viết trên đây được trích nguyên văn từ
http://www.dongcong.net/DongDongCong/LuocSuDong.htm
Trừ một số chi tiết nhỏ được cập nhật hóa thêm v́ có liên quan tới người viết trong cuộc.
NỘI DUNG
Một Vị Sáng Lập với Ba Di Sản
27- Di Sản Một Hội Ḍng
40- Di Sản Một Chi Ḍng
52- Di Sản Một Gia Đ́nh Đồng Công
Sứ Mệnh Vượt Thoát Truyền Giáo
61- Lệnh Lên Đường
Lư Tưởng Thánh Đồng Công
122- Cha Thủ - Huấn Luyện Thánh
136- Cha Thủ - Linh Hướng Thánh