HỘI THÂN HỮU ĐỒNG CÔNG DÒNG MẸ CHÚA CỨU CHUỘC 

Non ministrari sed ministrare (Mathêu 20:28)

 

 

CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ, CMC

 

Hạt Lúa Miến Mục Nát cho Mùa Thánh Đức Việt Nam

 

 

 

Cha Thủ - Tần Số Thánh

  

 

 

P

hải, vị linh hưởng khả kính khả ái của tôi là Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ đã vĩnh viễn ra đi về với Chúa vào ngày 21/6/2007, ngày mà đúng 43 năm trước, 21/6/1964, tôi đã bắt đầu tập tễnh theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công từ đệ tử viện Đồng Công Thủ Đức.

 

Tôi đã ước ao được gặp vị linh hướng duy nhất của cuộc đời tôi này một lần cuối cùng, nhất là vào năm ngài được đúng 100 tuổi. Và Thiên Chúa quả thực đã đáp lại ước vọng hết sức thiết tha và chân tình của tôi, khi cho tôi được gặp ngài vào chiều Thứ Sáu mùng 7 tháng 7 năm 2006, từ 4 giờ đến 4 giờ 30 chiều, trong phòng riêng của ngài. Đúng 1 tháng sau, vào chính ngày quan thày Đaminh của ngài, 8/8/2006, ngài đã được đưa vào bệnh viện vì bị tai biến mạch máu não, trở nên tê liệt và hầu như bị cấm khẩu cho đến khi qua đời.

Thật là may cho tôi, tôi đã được diễm phúc gặp lại vị linh mục dẫn dắt tôi theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công này tại phòng riêng của ngài. Ngài vẫn còn nhớ tôi. Ngài đã tiếp tôi, không phải là 5 hay 6 phút như mọi trường hợp khác, và như tôi đã được các vị thẩm quyền trong dòng bấy giờ dặn dò kỹ lưỡng trước khi tôi được vào gặp ngài. Khi vào tới nơi thì quả thực mới hiểu được lý do tại sao mọi người chỉ được gặp ngài 5-6 phút. Ở chỗ, sức khỏe của ngài không cho phép!

 

Đúng thế, hôm ấy hai cha con chúng tôi đã nằm để hàn huyên tâm sự. Theo thói quen hãm mình không thay đổi, ngài vẫn nằm trên nền nhà. Bấy giờ, ngài nằm nghiêng về phía bên phải, lưng quay vào tường, để nói chuyện với tôi. Tôi cũng đã nằm sấp, hướng mặt về ngài, để nói chuyện với ngài.

 

Ngày xưa, khi còn được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với nhau, một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên gần phòng của ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên nền nhà ở trong phòng của ngài, cho đến khi hết chuyện. Ngài không bao giờ ép ai gặp ngài, trừ khi ngài có chuyện cần gặp họ về vấn đề trách vụ của họ, hay liên quan đến vấn đề trầm trọng cần phải sửa mình để nên thánh của họ. Trong cuộc gặp gỡ, ngài cũng không hạch hỏi hay đi sâu vào tâm hồn những ai xin gặp ngài, nếu họ không tự động tỏ ra cho ngài.

 

Tuy nhiên, ngài có thể thấu biết được tình trạng tâm hồn anh em của ngài hơn ai hết, thậm chí hơn cả chính họ nữa. Bởi vậy, có những người xin gặp ngài mà không được, trái lại, chỉ nhận được một câu nói vắn gọn của ngài: “cứ thế mà sống”. Hay có được gặp ngài thì chỉ rất vắn tắt ngắn ngủi, bởi vì hầu như chỉ có họ nói, nói tất cả những gì đầy lên trong óc của họ, đến nỗi họ viết cả ra giấy kẻo quên. Phần ngài, những gì được bàn hỏi, ngài trả lời vắn tắt, và những gì được tâm sự, ngài nghe biết vậy, cuối cùng, nếu cần, như một vị lang y, ngài bốc cho một thang thuốc thiêng liêng vắn tắt, bằng những lời khuyên hợp với từng tâm hồn, từng trường hợp, mà nếu họ tin tưởng và áp dụng thực hành, họ sẽ cảm thấy lời ngài dạy hoàn toàn là một phương dược linh nghiệm cho cuộc đời tận hiến theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công của họ.

 

Trong dịp được gặp ngài lần cuối cùng, giữ đúng lời hứa với những người anh em có trách nhiệm về thời lượng vắn vỏi được diện kiến với ngài, một thời lượng để đủ chào hỏi vài ba câu theo kiểu xã giao bề ngoài, sau khi nói chuyện với ngài được khoảng đúng 5-6 phút, tôi hỏi ngài có mệt không, ngài nói không, rồi ngài tự động tiếp tục nói chuyện với tôi, (làm cho bên ngoài hết sức thắc mắc nhưng không dám can thiệp vào nội bộ giữa ngài và tôi), cho đến đúng nửa tiếng (từ 4 đến 4 giờ 30 chiều), khi chính tôi, vì giờ giấc hạn hẹp theo lịch trình du lịch, đành phải “đoạn trường tân thanh” chấm dứt cuộc gặp gỡ lịch sử cuối cùng không bao giờ quên được này, không bao giờ tái diễn ấy.

 

Sở dĩ tôi có thể nói chuyện lâu với ngài như thế là vì, có thể nói, tôi đã bắt được trúng tần số của ngài, một tần số tôi đã quá quen thuộc. Như vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, khi còn là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger đã biết được tần số của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiên về triết lý nói chung và luân lý thần học vậy (xem tác phẩm Muối Đất - Salt of the Earth, ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997, trang 10), hay tần số của chính vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI này là phụng vụ, giáo hội và đức tin (cùng nguồn trang 49, 65-66). Vậy tần số của vị linh hướng đáng kính đáng mến của tôi đây là gì, nếu không phải là chính Lý Tưởng Thánh Đồng Công!

 

Phải, hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết sức thân thương ban đầu, tôi đã lợi dụng câu ngài hỏi tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu nhập cuộc. Tôi thưa ngài rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho ngài nghe tình hình sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới thánh đức. Thế là ngài đã thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ hết, có lúc ngài đã vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi còn nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn như sau: “Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức tin mà không biết…. Ở bên Mỹ mà còn giữ được đức tin là một phép lạ đấy!”

 

Phần tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai quì xuống xin ngài ban phép lành tràn đầy ân phúc từ cuộc đời thánh đức của ngài, như xin ngài tiếp tục truyền nội lực thánh thiện của ngài cho mình, tôi đã nói những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt) sau đây:

 

"Em cùng gia đình em về thăm Anh nhân dịp mừng Anh 100 tuổi. Trước hết để tỏ lòng tri ân cảm tạ Anh. Vì không có Anh em đã không được như ngày hôm nay, và không có được một gia đình như bây giờ. Tuy em không còn chính thức là một tu sĩ Đồng Công trong Dòng, song em vẫn tiếp tục theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn cố gắng sống theo những gì Anh Cả đã truyền đạt cho em. Xin anh cầu cho em để em có thể trở thành một 'Đồng Công Nằm Vùng', sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, như men trong bột!"

 

Tôi phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp ngài, dù không được ở gần ngài cho tới giây phút ngài lìa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, biết rõ là tôi hết lòng biết ơn ngài, hết lòng cảm phục ngài, hết lòng gắn bó với ngài, đã cho tôi được mãn nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ còn biết rơi lệ nhìn ngài!

 

Cuộc đời trần gian của tôi đây, bao gồm cả gia đình của tôi, lẫn sự nghiệp tông đồ của tôi, sẽ chẳng bao giờ có, nếu tôi không được trực tiếp ở với ngài trong nửa số thời lượng tu trì 18 năm 2 tháng của tôi (1966-1975). Tôi hoàn toàn thâm tín như thế. Cái di sản vô giá ngài để lại cho tôi, đó là sự thánh thiện, là lòng hăng say nên thánh, là ưu tiên nước Chúa trước, là tinh thần tận hiến, là chính ID Đồng Công, Lý Tưởng Thánh Đồng Công.

 

 

Xin hãy đọc những lời chia sẻ chân tình ở những chương sau này, theo chiều hướng qui về và bắt nguồn từ Cha Thánh Đaminh Maria Trần Đình Thủ, với nhiều chi tiết liên quan tới bản thân người viết, những chi tiết chỉ mang tính cách chứng cớ để làm sáng tỏ một Sự Thật Rạng Ngời - Veritatis Splendor về Vị Linh Hướng Thánh của tôi.

 

 

 

 

 

NỘI DUNG

 

 

Một Vị Sáng Lập với Ba Di Sản

 

7- Một Vị Sáng Lập

27- Di Sản Một Hội Dòng

40- Di Sản Một Chi Dòng

52- Di Sản Một Gia Đình Đồng Công

 

Sứ Mệnh Vượt Thoát Truyền Giáo

 

61- Lệnh Lên Đường

71- Lênh Đênh Hải Ngoại

81- Đức Tin Vượt Đại Dương

 

Lý Tưởng Thánh Đồng Công

 

97- Cha Th - Tần Số Thánh

103- Cha Thủ - Yêu Sống Thánh

122- Cha Thủ - Huấn Luyện Thánh

136- Cha Thủ - Linh Hướng Thánh

149- Cha Thủ - Ảnh Hưởng Thánh

165- Cha Thủ - Một Vị Thánh

171- Cha Th - Linh Đạo Thánh