GIÁO HỘI HIỆN THẾ
_______
THỨ HAI 14/8/2006 TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN |
? “Thánh Thần, qua Ngài Thiên Chúa đến với chúng ta, mang lại cho chúng ta sự sống và tự do”: ‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến’
? Lebanon: “Những Ngày Lịch Sử Cuối Cùng”?: Tình Trạng Xung Đột giữa Do Thái và Nhóm Dân Quân Hồi Giáo Hezbollah ở Lebanon
? HÀNH TRÌNH VIỆT NAM (tiếp) - Chân Trời Việt Nam
“Thánh Thần, qua Ngài Thiên Chúa đến với chúng ta, mang lại cho chúng ta sự sống và tự do”: ‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến’
(Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Bài Giảng Phụng Vụ Giớ Kinh Tối Đêm Canh Thức Hiện Xuống ngày 3/6/2006 với Các Phong Trào và Tân Cộng Đồng trong Giáo Hội)
‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến’
Anh Chị Em thân mến,
Anh chị em tới Quảng Trường Thánh Phêrô tối hôm nay thật là đông đảo để tham dự vào Buổi Canh Thức Hiện Xuống. Tôi thân ái chào anh chị em. Anh chị em thuộc về các dân tộc và văn hóa khác nhau và đến đây đạo diện cho tất cả mọi phần tử thuộc các phong trào và tân cộng đồng trong Giáo Hội, thành phần qui tụ một cách thiêng liêng chung quanh Vị Thừa Kế Thánh Phêrô để loan báo niềm vui tin tưởng nơi Chúa Giêsu Kitô cũng như để lập lại quyết tâm làm thành phần môn đệ trung thành trong thời đại của chúng ta.
Tôi cám ơn việc anh chị em tham dự và gửi lời chào thân ái đến từng anh chị em. Trước hết tôi ưu ái nghĩ đến các vị hồng y, đến quí huynh khả kính của tôi trong hàng giáo phẩm và hàng linh mục, cũng như đến những tu sĩ nam nữ.
Tôi chào những người mang trọng trách đối với nhiều hội đoàn của Giáo Hội, những người cho thấy tác động của Chúa Thánh Thần sống động nơi Dân Chúa. Tôi chào những ai đứng ra lo tổ chức biến cố đặc biệt này, nhất là những người làm việc tại Hội Đồng Tòa Thánh Về Giáo Dân với Giám Mục Josef Clemens, bí thư, và Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Rylko, chủ tịch, vị tôi xin cám ơn về những lời lẽ ưu ái vào lúc mở đầu Giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Tối này.
Một cuộc gặp gỡ tương tự như thế này cũng đã diễn ra tại chính Quảng Trường đây vào ngày 30/5/1998, với vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí. Là một đại truyền bá phúc âm hóa của thời đại chúng ta, ngài đã hỗ trợ và hướng dẫn anh chị em suốt giáo triều của ngài.
Ngài đã diễn tả những hiệp hội và cộng đồng của anh chị em vào nhiều dịp là những gì ‘hợp thời’, nhất là vì Thần Linh Thánh Hóa sử dụng những tổ chức này để khơi động đức tin nơi rất nhiều tâm can Kitô hữu, cũng như để tỏ cho họ thấy ơn gọi họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Ngài cũng giúp họ trở thành thành phần chứng nhân hy vọng tràn đầy lửa yêu thương được chính Thánh Linh tuôn đổ xuống trên chúng ta.
Chúng ta giờ đây hãy tự hỏi rằng vào Đêm Canh Thức Hiện Xuống đây Thánh Thần là ai hay là gì? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Ngài? Làm thế nào chúng ta đến với Ngài và làm sao Ngài đến với chúng ta? Đâu là những gì Ngài làm?
Bài đại thánh ca Hiện Xuống của Giáo Hội được chúng ta mở màn cho Giờ Kinh Tối, ‘Veni, Creator Spiritus… Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến’, là câu trả lời đầu tiên. Ở đây, bài thánh ca này ám chỉ tới những câu Thánh Kinh đầu tiên diễn tả việc tạo dựng vũ trụ bằng những hình ảnh ấy.
Trước hết, Thánh Kinh nói rằng Thần Linh Chúa di động trên những giao động, trên các giòng nước của vực thẳm.
Thế giới chúng ta đang sống đây là công việc của Thần Linh Sáng Tạo. Lễ Hiện Xuống chẳng những là khai nguồn của Giáo Hội và nhờ đó đặc biệt trở thành ngày lễ của Giáo Hội; Lễ Hiện Xuống cũng còn là ngày lễ của thiên nhiên tạo vật nữa. Thế giới này không tự mình hiện hữu, nó được hiện hữu bởi Thần Linh sáng tạo của Thiên Chúa, bởi Lời sáng tạo của Thiên Chúa.
Đó là lý do Lễ Hiện Xuống cũng phản ảnh đức khôn ngoan của Thiên Chúa nữa. Theo tính cách sâu rộng cũng như theo lý lẽ toàn diện về các thứ lề luật của mình, đức khôn ngoan của Thiên Chúa cho phép chúng ta được thoáng thấy một chút gì đó về Vị Thần Linh Sáng tạo của Ngài. Nó gợi lên một niềm kính sợ.
Chính những con người, thành phần, như Kitô hữu, tin vào Vị Thần Linh Sáng Tạo, ý thức được sự kiện là chúng ta không thể sử dụng hay lạm dụng thế giới và thể chất chỉ thuần là vật chất cho hoạt động và ước muốn của chúng ta; sự kiện là chúng ta cần phải coi thiên nhiên tạo vật là một tặng ân được ban cho chúng ta không phải là để bị hủy diệt, mà để trở thành khu vườn của Thiên Chúa, do đó, cũng trở thành một khu vườn cho con người nam nữ vậy.
Trước nhiều hình thức lạm dụng trái đất chúng ta thấy ngày nay, chúng ta có thể thực sự nghe thấy tiếng rên xiết của tạo vật được Thánh Phaolô nói tới (Rm 8:22); chúng ta hãy bắt đầu hiểu những lời này của Thánh Tông Đồ, đó là thiên nhiên tạo vật nhẫn nại đợi chờ việc tỏ hiện đó là việc chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, được giải thoát khỏi nô lệ và chiếm được vinh quang rạng ngời của mình.
(
bài tiếp: Tạo vật nhẫn nại đợi chờ việc tỏ hiện đó là việc chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/6/2006, các tiểu đề là do người dịch tự ý phân chia
Lebanon: “Những Ngày Lịch Sử Cuối Cùng”?: Tình Trạng Xung Đột giữa Do Thái và Nhóm Dân Quân Hồi Giáo Hezbollah ở Lebanon
Thật vậy, Cuộc Chiến Tranh giữa Khối Ả Rập và Do Thái năm 1967, và Cuộc Thanh Trừng Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO) của Jordan năm 1970, sau khi tổ chức này muốn lật đổ Vua Hussein, đã đẩy một số đông người tị nạn Palestine đến Lebanon, trong số đó có Arafat và Tổ Chức Giải Phóng Palestine.
Vào tháng 11/1969, tổng tư lệnh quân đội Labanon là Emile Bustani và Arafat ký một hiệp ước ở Cairô nhìn nhận ‘cuộc cách mạng của Palestine’ và cho phép những người Palestine ở Lebanon ‘tham gia vào cuộc chiến đấu bằng võ trang mà không tác hại cho chủ quyền và an ninh của Lebanon’. Bản hiệp ước này có công hiệu gần 20 năm, cho đến khi Lebanon hủy bỏ nó vào tháng 5/1987.
Vào thời khoảng 1970-1971, vì đương đầu với cuộc chiến đấu ở Jordan với cả ngàn người bị thiệt mạng, Tổ Chức Giải Phóng Palestine chuyển trụ sở của mình tới Labanon để có thể thực hiện các cuộc đột kích Do Thái. Một nhóm khủng bố Palestine dính dáng với Tổ Chức Giải Phóng Palestine được hình thành. Tên của nhóm này là ‘Tháng Chín Đen’ – một danh xưng ám chỉ cuộc trừng trị thẳng tay của người Jordan đối với người Palestine vào Tháng Chín năm 1970.
Vào năm 1972, Nhóm Tháng Chín Đen tấn công đội Do Thái tham dự Thế Vận Hội ở Munich, Đức quốc. Sau một cuộc đối chọi làm cho một huấn luyện viên và một thể thao viên bỏ mạng, thành phần khủng bố bắt 9 thể thao viên Do Thái làm con tin, đòi Do Thái phải thả các tù nhân Palestine để đổi lại các con tin của Do Thái. Do Thái chối từ, và một cuộc bắn nhau giữa thành phần tấn công và chính quyền Tây Đức gây cho tất cả 9 con tin, 4 tay khủng bố và 1 cảnh sát chết.
Vào ngày 17/7/1981, lực lượng Do Thái dội bom các tổng hành dinh Tổ Chức Giải Phóng Palestine ở West Beirut, sát hại trên 300 thường dân. Cuộc tấn công dẫn đến một cuộc đình chiến giữa Do Thái, Tổ Chức Giải Phóng Palestine, và Syria bấy giờ đang có quân đội ở Lebanon. Cuộc đình chiến kéo dài tới 6/6/1982, khi Do Thái xâm chiếm Lebanon với quân số khoảng 60 ngàn để tiêu diệt Tổ Chức Giải Phóng Palestine, sau cuộc ám sát vị lãnh sự của Do Thái ở Britain. Arafat và Tổ Chức Giải Phóng Palestine tẩu thoát sang Lebanon vào tháng 8 và định cư ở Tunis cho đến khi chuyển tới Gaza vào năm 1994.
Vào thời điểm này, một nhóm dân quân Hồi Giáo phái Shiite là Hezbollah nổi lên như một lực lượng ở Beirut, ở Bekaa Valley và miền nam Lebanon. Được Iran bảo trợ, theo kiểu mẫu Vệ Binh Cách Mạng của Iran, và được Syria nâng đỡ, nhóm Hezbollah muốn thiết lập một quốc gia Hồi Giáo Shiite ở Lebanon và đẩy những thành phần thân Tây Phương như Do Thái và Hoa Kỳ ra khỏi miền này.
Nhóm Hezbollah bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công tự sát, đầu tiên vào ngày 18/4/1983 ở Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Tây Beirut sát hại 63 người, một dấu báo cho thấy trước các cuộc tấn công sau này chống lại Hoa Kỳ và những kẻ thân Tây Phương. Lần thứ hai vào ngày 23/10/1983, cuộc nổ bom tự sát của Hezbollah đã làm nổ tung các tổng hành dinh của những lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ và Pháp ở Beirut, sát hại 298 người, trong đó có 241 Hải Quân Hoa Kỳ cùng với các nhân viên quân sự khác. Quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Lebanon sau đó ít tháng.
Vào tháng 7/1993, Do Thái tấn công miền nam Lebanon trong một cuộc hành quân dài cả tuần lễ với mục đích chấm dứt các cuộc tấn công của nhóm Hezbollah vào các tỉnh của Do Thái. Tháng 4/1996 xẩy ra một trận chiến 16 ngày giữa Do Thái và các dân quân nhóm Hezbollah, gây cho 137 người thiệt mạng, hầu hết là thường dân Lebanon. Tháng 9/2003, các máy bay chiến đấu của Do Thái đánh vào miền nam của Lebanon để trả đũa cho các đầu đạn bắn hạ máy bay của nhóm Hazbollah tấn công những máy bay của Do Thái ở trong vùng ấy.
Tháng 7/2006, nhóm dân quân Hezbollah tiến vào Do Thái, giết 3 quân nhân Do Thái và bắt cóc 2 quân nhân khác để đòi trao đổi tù binh, một đòi hỏi bị Do Thái bác bỏ. Năm quân nhân Do Thái khác lại bị phục kích chết. Do Thái trả đũa bằng một cuộc phong tỏa hải quân và dội bom hằng trăm mục tiêu ở Lebanon, bao gồm cả phi trường Beirut và các tổng hành dinh của Hezbollah ở miền nam Beirut. Nhóm Hezbollah phản công bằng những cuộc tấn công hỏa đạn và phi đạn tầm xa vào các thành phố bắc Do Thái. Cho tới nay cuộc chiến kéo dài cả tháng trời, với cả gần ngàn mạng người Lebanon bị tử vong, và cả một nước Lebanon trở thành biến loạn và chạy loạn chẳng khác gì một Việt Nam cuối Tháng Tư Đen 1975.
Sau cùng, vào 8 giờ sáng Thứ Hai 14/7, sau 33 ngày xung đột, hai bên đã đồng ý ngưng chiến theo quyết nghị 1701 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc từ hôm Thứ Sáu 11/7/2006. Hậu quả của gần 4000 phi đạn do nhóm dân quân Hezbollah ở Lebanon bắn phản công và trên 100 cuộc oanh tạc của Do Thái trả đũa, cùng với các cuộc bộ chiến, đã gây thiệt mạng cho 114 quân nhân và 53 thường dân Do Thái, và 890 người bên Lebanon, trong đó có 530 dân quân Hezbollah, cùng gây thương tích cho 865 người Do Thái và 3.529 người Lebanon, chưa kể làm cho 300 ngàn người Lebanon trở thành tị nạn.
(bài tiếp: Giáo Hội Công Giáo: Ngày Cầu Nguyện và Thống Hối Cho Hòa Bình Trung Đông)
HÀNH TRÌNH VIỆT NAM - Chân Trời Việt Nam
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
(tiếp 8 Thứ Ba, 9 Thứ Tư, 10 Thứ Năm, 11 Thứ Sáu, 12 Thứ Bảy và 13 Chúa Nhật)
Chân Trời Việt Nam
Nếu thực sự Đấng làm chủ lịch sử, vào thời điểm của Ngài, sai đến cho Việt Nam thành phần lãnh đạo, như Gioan Phaolô II cho một Đông Âu sụp đổ năm 1989, hay Mikhail Gobarchev cho một Liên Sô giải thể năm 1991, thì, tôi tin rằng, với một dân tộc cần cù cầu tiến, với một ý hệ đang chới với khủng hoảng, với một nền kinh tế đang trằn trọc trở mình, với một xã hội đang khao khát công lý và hòa bình, hy vọng như rạng đông chắc chắn sẽ ló rạng trong lòng tôi, trong lòng anh, trong cuộc Hành Trình Việt Nam.
|
Dù tượng Chúa Kitô Vua trên đỉnh núi Tao Phùng ở cuối bãi trước Vũng Tầu, một bức tượng Chúa Kitô lớn nhất thế giới, cao 32 mét, với hai cánh tay dang dài 18 mét 40, (nơi tôi đã ghé thăm hôm 7/7), tuy hơn cả bức tượng Chúa Giêsu ở Rio de Janerio bên Ba Tây chỉ cao 26 mét và hai tay giang rộng có 16 mét, vẫn hơi thua tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước Hoa Kỳ, cao 111’1” (33.86 mét), (nơi tôi đến tham quan năm 1998), thế nhưng, Giáo Hội Việt Nam, nhờ ơn Chúa, vẫn chưa xẩy ra nạn linh mục lạm dụng tình dục vị thành niên như ở Hoa Kỳ.
|
Dù Trung Tâm Giải Trí Tuần Châu kỳ thú và thơ mộng đệ nhất nước Việt Nam ở Thành Phố Hạ Long, Tỉnh Quảng Ninh, (nơi tôi đến chơi hôm 23/6), không vĩ đại và tối tân kỹ thuật bằng Disneyland ở Anaheim California hay Disney World ở Florida, Mỹ quốc, (những nơi tôi đã từng đến giải trí một số lần), nhưng Hoa Kỳ vẫn cảm thấy hết sức thòm thèm một Vịnh Cam Ranh hay hải thế Đà Nẵng của Việt Nam.
|
Dù khu nhà thờ Phát Diệm là một quần thể bao gồm 10 công trình với một nhà thờ lớn, 4 nhà thờ nhỏ chung quanh, 1 nhà thờ đá, hang đá táng xác v.v., được linh mục Phêrô Trần Lục (1825-1899) xây dựng từ năm 1875 theo kiến trúc Á Đông cổ bằng đá rất đồ sộ và mỹ thuật, (nơi tôi đến viếng ngày 27/6), vẫn không nguy nga bằng vương cung thánh đường Nữu Ước, (nơi tôi có dịp chiêm ngắm năm 1998), nhưng, nhờ ơn Chúa, ơn gọi linh mục Việt Nam vẫn dồi dào hơn ở Mỹ, đến nỗi khiến các vị giám mục Hoa Kỳ phải tỏ ra khâm phục.
|
Dù cố đô Hoa Lư ở Phát Diệm Bắc Việt, (nơi tôi ghé coi ngày 27/6), và kinh thành Huế, cùng với lăng Khải Định và Tự Đức, (những nơi tôi đến tham quan ngày 28/6), có hợp lại, cũng không bằng di tích cung đình của Trung Hoa, (nơi tôi chưa từng đến, song đã từng được nghe người hướng dẫn viên du lịch miền trung của tôi ca tụng), thế nhưng, Việt Nam vẫn không bị mất gốc suốt cả “một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”, trái lại, còn đại thắng quân Nguyên 3 lần, đám quân đã làm náo loạn cả Âu Châu một thời.
|
Dù trung tâm Đức Mẹ Bãi Dâu Vũng Tầu, (nơi tôi đến kính viếng ngày 7/7), và trung tâm Đức Mẹ Lavang Quảng Trị, (nơi tôi đến viếng thăm ngày 30/6), cả hai cộng lại cũng không bằng trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức ở miền nam Pháp quốc, (nơi tôi cũng đã được diễm phúc ở 2 ngày vào giữa Năm Thánh 2000), thế nhưng, các nhà thờ ở Việt Nam vẫn chật chỗ ngồi vào các Chúa Nhật, dù có nhiều lễ trong ngày này, chứ không phải là những nhà thờ đồ sộ mà trống không hay bỏ không như ở Pháp đã lâu.
|
Nếu Vịnh Hạ Long ở Tỉnh Quảng Ninh Bắc Việt, (nơi tôi đã tham quan ngày 22/6), và Động Phong Nha ở Tỉnh Quảng Bình Trung Việt, (nơi tôi cũng đã tham quan ngày 29/6), là những địa danh không đâu có trên thế giới, những cảnh sắc thiên nhiên đầy hữu tình và kỳ thú, được liệt kê vào bộ gia sản đặc thù quí báu của thế giới, thì Việt Nam cũng hãnh diện về căn tính văn hóa chuyên biệt của mình, một nền văn hóa của một dân tộc nhỏ bé nhưng bất khuất, nghèo khổ nhưng cần cù, chật vật nhưng khéo léo, đau thương nhưng kiên cường, lận đận nhưng nung nấu, bất hạnh nhưng lạc quan... Những yếu tố văn hóa tối cần cho tương lai rạng ngời của một cuộc Hành Trình Việt Nam!
(xem lại toàn bài Hành Trình Việt Nam)