Tông Hun ca Đức Thánh Cha Phaolô VI

MARIALIS CULTUS

Chiu Hướng Đúng Đắn và Vn Đề Phát Trin ca Việc Sùng Kính Đức Trinh N Maria

Cùng Tt C Chư V Giám Mc trong B́nh An và Hip Thông vi Ṭa Thánh

Ngày 2/2/1974


 

PHN HAI

 

Vn Đề Canh Tân Vic Tôn Sùng M Maria

 

 

24.       Công Đồng Chung Vaticanô II cũng kêu gọi chúng ta hăy cổ vơ những h́nh thức khác của ḷng đạo đức bên cạnh việc tôn thờ về phụng vụ, nhất là những h́nh thức được huấn quyền khuyến khích (67). Tuy nhiên, như chúng ta quá biết, ḷng đạo đức của tín hữu và việc tôn kính của họ đối với Người Mẹ của Thiên Chúa đă mặc nhiều h́nh thức tùy theo hoàn cảnh về thời gian và nơi chốn, tùy theo những cảm quan của các dân tộc, cùng với những truyền thống về văn hóa khác nhau của họ. Bởi thế, những h́nh thức bày tỏ ḷng tôn sùng này, khi bị thời gian tàn phá, cho thấy cần phải cải tiến để chúng có thể thay thế những yếu tố nhất thời, có thể nhấn mạnh đến những yếu tố hằng mới mẻ và ḥa hợp với dữ kiện về tín lư của các suy tư thần học cũng như với những phác họa nơi huấn quyền của Giáo Hội. Điều này cần phải có các hội đồng giám mục, các giáo hội địa phương, các gia đ́nh tu tŕ và Cộng Đồng tín hữu cổ vơ một thứ hoạt động sáng tạo chân thực và đồng thời tiến hành việc thận trọng cải tiến những bày tỏ và thực hành ḷng đạo đức đối với Đức Trinh Nữ. Chúng tôi muốn thấy việc cải tổ này chẳng những tỏ ra tôn trọng truyền thống lành mạnh mà c̣n cởi mở với những yêu cầu hợp lư của dân chúng trong thời đại của chúng ta. Bởi thế, Chư Huynh khả kính, thật là thích đáng trong việc đề ra một số nguyên tắc để hành động trong lănh vực này.

 

 

Đon Mt

 

Nhng Khía Cnh Ba Ngôi, Kitô Hc và Giáo Hi Hc nơi Vic Tôn Sùng Đức Trinh N

 

25.       Trước hết, vấn đề hết sức thích đáng là những việc thực hành ḷng đạo đức đối với Trinh Nữ Maria cần phải hiển nhiên thể hiện việc chú trọng đến tính cách Ba Ngôi và Kitô học nội tại và thiết yếu của chúng. Thật vậy, việc tôn thờ Kitô giáo tự ḿnh là việc tôn thờ hiến dâng lên Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, hay, như phụng vụ diễn tả, hiến dâng lên Cha nhờ Chúa Kitô trong Thần Linh. Theo quan điểm này th́ việc tôn thờ chính đáng được bao gồm, cho dù một cách khác nhau về thực chất, trước hết và trên hết, một cách đặc biệt là Mẹ Thiên Chúa, rồi tới các thánh, những vị mà nơi họ Giáo Hội công bố Mầu Nhiệm Vượt Qua, v́ các vị đă chịu khổ với Chúa Kitô và đă được hiển vinh với Người (68). Nơi Trinh Nữ Maria hết mọi sự đều có liên quan tới Chúa Kitô và lệ thuộc vào Người. Chính v́ Chúa Kitô mà Thiên Chúa Cha từ đời đời đă chọn Mẹ làm Người Mẹ hoàn toàn thánh hảo và đă trang điểm cho Mẹ những tặng ân của Thần Linh không một ai có. Ḷng đạo đức chân chính của Kitô hữu thực sự không bao giờ ngừng nhấn mạnh đến mối liên kết bất khả phân ly và mối liên hệ thiết yếu của Vị Trinh Nữ này với Đấng Cứu Thế thần linh (69). Tuy nhiên, đối với chúng tôi ḷng đạo đức này dường như đặc biệt am hợp với chiều hướng thiêng liêng của thời đại chúng ta, một chiều hướng bị chi phối và thấp nhập bởi “vấn đề về Chúa Kitô” (70), để khía cạnh Kitô học được đặc biệt nổi bật nơi những bày tỏ về ḷng sùng kính Vị Trinh Nữ này. Cũng thế, đối với chúng tôi, những bày tỏ về việc tôn sùng này cũng cần phải phản ảnh dự án của Thiên Chúa, một dự án đă được phác họa “bằng một sắc lệnh duy nhất cái nguồn gốc của Mẹ Maria và việc Nhập Thể của Đức Khôn Ngoan thần linh” (71). Điều này chắc chắn là những ǵ sẽ góp phần vào việc làm cho ḷng đạo đức đối với Người Mẹ của Chúa Giêsu vững chắc hơn, và làm cho nó thành một dụng cụ hiệu nghiệm để đạt được tất cả “kiến thức về Con Thiên Chúa, cho đến khi chúng ta trở nên con người thành toàn, đạt tới tầm vóc trọn vẹn của chính Chúa Kitô” (Eph 4:13). Nó cũng sẽ góp phần vào vấn đề làm gia tăng việc tôn thờ xứng với Chính Chúa Kitô, v́, theo tâm thức vĩnh viễn của Giáo Hội được lập lại theo thẩm quyền của ḿnh trong thời đại của chúng ta đây (72), những ǵ được ban cho vị nữ tỳ này đều liên quan tới Chúa; bởi thế, những ǵ được ban cho Người Mẹ đều trở về với Người Con; … và v́ thế những ǵ được dâng lên vị Nữ Vương như việc tôn kính khiêm hạ đều trở thành việc tôn kính qui về cho Đức Vua” (73).  

 

26.       Chúng tôi thấy cần phải thêm vào việc đề cập tới chiều hướng Kitô học của ḷng sùng kính Đức Trinh Nữ này một nhắc nhở về việc làm nổi bật một cách thích đáng nơi việc tôn sùng này đối với một trong những sự kiện thiết yếu của Đức Tin đó là Ngôi Vị và hoạt động của Thánh Linh. Thật vật, suy tư thần học và phụng vụ đă nhận thấy làm thế nào mà việc Thần Linh ra tay thánh hóa Vị Trinh Nữ thành Nazarét này lại là giây phút tột đỉnh của hoạt động Thần Linh trong lịch sử cứu độ. Bởi thế một số vị Giáo Phụ và những văn hào của Giáo Hội chẳng hạn đă qui sự thánh thiện nguyên thủy của Mẹ Maria cho hoạt động của Thần Linh, vị thực sự đă “được Thánh Linh làm thành một loại bản chất mới và tạo vật mới” (74). Khi suy niệm về các đoạn Phúc Âm – “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ” (Lk 1:35) và “Maria được thụ thai bởi Thánh Linh… Người đă thụ thai bởi Thánh Linh” (Mt 1:18, 20) – các vị đă thấy nơi việc can thiệp của Thần Linh này tác động thánh hiến và phong phú hóa đức trinh khiết của Mẹ Maria (75) và biến đổi Mẹ thành “Nơi Ở của Đức Vua” hay “Hôn Pḥng của Lời” (76), “Đến Thờ” hay “Nhà Tạm của Chúa” (77), “Ḥm Bia Giao Ước” hay “Ḥm Bia Thánh Thiện” (78), những tước hiệu âm vang đầy những ư nghĩa thánh kinh. Khi khảo sát sâu xa hơn nữa mầu nhiệm Nhập Thể, các vị thấy nơi mối liên hệ nhiệm mầu này giữa Thần linh và Mẹ Maria một khía cạnh đầy mầu sắc hôn phối, được Prudentius phác tả một cách thi ca rằng: “Vị Trinh Nữ chưa thành hôn này được Thần Linh kết hôn” (79) và các vị gọi Mẹ là “Đến Thờ của Thánh Linh” (80), một diễn tả nhấn mạnh đến tính chất linh thánh của Vị Trinh Nữ này, bấy giờ là nơi vĩnh cư của Thần Linh Thiên Chúa. Đào sâu vào tín lư về Đấng An Ủi, các vị thấy rằng xuất phát từ Ngài như từ một nguồn tuôn tràn t́nh trạng đầy ân phúc (cf Lk 1:28) và dồi dào các tặng ân điểm tô cho Mẹ. Bởi thế, các vị qui cho Thần Linh đức tin, đức cậy và đức mến là những ǵ làm sinh động con tim của Vị Trinh Nữ này, sức mạnh giúp Mẹ chấp nhận ư muốn của Thiên Chúa, và khí thế nâng đỡ Mẹ chịu khổ đau dưới chân thập giá (81). Nơi bài ca vịnh tiên tri của ḿnh (cf Lk 1:46-55), các vị đă thấy được một hoạt động đặc biệt của Thần Linh là Đấng nói qua môi miệng của các vị tiên tri (82), Sau hết, khi xét tới việc hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu ở Căn Thượng Lầu, nơi Thần Linh đă ngự xuống trên Giáo Hội sơ khai (cf. Acts 1:12-14; 2:1-4), các vị làm phong phú thêm bằng những khai triển mới đề tài xa xưa về Mẹ Maria và Giáo Hội (83). Nhất là các vị chạy đến cùng việc chuyển cầu của Mẹ Maria để xin Thần Linh khả năng sinh sản Chúa Kitô trong linh hồn của các vị, như được chứng thực bởi Thánh Ildephonsus trong một lời nguyện cầu tuyệt vời với tín lư của nó và có tính cách nguyện cầu quyền năng: “Con van xin Mẹ, hỡi trinh Nữ thánh đức, hăy cho con có được Chúa Giêsu từ nơi Thánh Linh là Đấng đă làm cho Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu. Chớ ǵ linh hồn con lănh nhận Chúa Giêsu nhờ Thánh Linh là Đấng làm cho xác thịt của Mẹ thụ thai Chúa Giêsu…  Chớ ǵ con yêu mến Chúa Giêsu trong Thánh Thần là Đấng giúp Mẹ tôn thờ Chúa Giêsu là Chúa và nhín lên Người như là Con của Mẹ” (84).

 

27.       Vấn đề ở đây là ngày nay có nhiều sách vở thiêng liêng không đủ chia sẻ tất cả tín lư về Thánh Linh. Nó là công việc của các chuyên gia trong việc kiểm chứng và cân nhắc sự thật về chủ trương này, thế nhưng nó cũng là việc chúng tôi muốn kêu gọi mọi người, nhất là những ai thực hiện thừa tác mục vụ và các thần học gia, hăy suy niệm sâu xa hơn về hoạt động của Thánh Linh trong lịch sử cứu độ, và hăy bảo đảm rằng những sách vở thiêng liêng của Kitô giáo cần phải đề cao một cách xứng hợp hoạt động ban sự sống của Ngài. Một cuộc nghiên cứu như thế sẽ đặc biệt làm sáng tỏ mối liên hệ âm thầm giữa Thần Linh của Thiên Chúa với Vị Trinh Nữ Nazarét, và cho thấy ảnh hưởng các vị có trên Giáo Hội. Từ việc suy niệm sâu xa hơn này về những sự thật của Đức Tin mới xuất phát một ḷng đạo hạnh sống động hơn.

 

28.       Những thực hành đạo hạnhtín hữu tỏ ra tôn kính Người Mẹ của Chúa cũng cần phải rơ ràng cho thấy vị thế Mẹ có ở trong Giáo Hội: “vị thế cao nhất và gần chúng ta nhất sau Chúa Kitô” (85). Những dinh thự về phụng vụ của lễ nghi Byzantine, cả về sự cấu tạo về kiến trúc cũng như về việc sử dụng các h́nh ảnh, đều rơ ràng cho thấy vị trí của Mẹ Maria trong Giáo Hội. Ở cửa chính gắn h́nh ảnh có tŕnh bày cánh Truyền Tin và ở hậu cung là h́nh ảnh Mẹ Thiên Chúa vinh hiển. Như thế người ta thấy cách thức qua việc đồng ư của người tỳ nữ khiêm hạ của Cúa, nhân loại bắt đầu trở về cùng Thiên Chúa và thấy nơi vinh hiển của Vị Trinh Nữ hoàn toàn thánh thiện đích điểm của cuộc họ hành tŕnh. Cái biểu hiệu này ở một ngôi nhà thờ chứng tỏ cho thấy vị thế của Mẹ Maria trong mầu nhiệm của Giáo Hội đầy những ư nghĩa và cho thấy lư do để hy vọng rằng những h́nh thức khác nhau của việc tôn sùng đối với Đức Trinh Nữ này có thể là những ǵ cởi mở trước các quan niệm của Giáo Hội ở hết mọi nơi. 

 

Tín hữu sẽ có thể cảm nhận một cách dễ dàng hơn sứ vụ của Mẹ Maria trong mầu nhiệm của Giáo Hội và vị thế đệ nhất của Mẹ trong mối hiệp thông các thánh, nếu chú ư tới những qui chiếu của Công Đồng Chung Vaticanô II về những quan niệm căn bản đối với bản chất của Giáo Hội như là Gia Đ́nh của Thiên Chúa, của Dân Chúa, của Vương Quốc Thiên Chúa và của Nhiệm Thể Chúa Kitô (86). Điều này sẽ giúp cho tín hữu ư thức sâu xa hơn về một thứ t́nh huynh đệ liên kết tất cả họ lại như là những đứa con trai con gái của Trinh Nữ Maria, “vị đă cộng tác bằng t́nh yêu của một người mẹ vào việc tái sinh của họ và h́nh thành thiêng liêng của họ” 987), và như là những đứa con trai con gái của Giáo Hội, v́ “chúng ta được sinh ra từ ḷng Giáo Hội, chúng ta được nuôi dưỡng bằng sữa của Giáo Hội, chúng ta được Thần Linh của Giáo Hội ban cho sự sống” (88). Họ cũng sẽ nhận thấy rằng cả Giáo Hội và Mẹ Maria đều hợp tác sinh hạ Nhiệm Thể Chúa Kitô, v́ “cả hai đều là Mẹ của Chúa kitô, thế nhưng khong ai sinh hạ toàn thân mà lại không có nhau” (89). Cũng thế, tín hữu  sẽ cảm nhận rơ ràng hơn nữa là tác động của Giáo Hội trên thế giới này có thể giống như là một thứ kéo dài mối quan tâm của Mẹ Maria. T́nh yêu thương chủ động Mẹ tỏ ra ở Nazarét, nơi nhà bà Isave, ở Cana và trên đồi Golgotha – tất cả những giai đoạn cứu độ đều có tầm vóc giáo hội rất quan trọng – được kéo dài nơi mối quan tâm từ mẫu của Giáo Hội về việc tất cả mọi người cần phải nhận biết chân lư (cf 1Tim 2:4), nơi mối quan tâm của Giáo Hội đối với thành phần sống trong hoàn cảnh thấp hèn cũng như đối với thành phần nghèo khổ yếu kém, và nơi việc liên lỉ dấn thân của Giáo Hội cho ḥa b́nh và việc sống ḥa hợp trong xă hội, cũng như nơi những nỗ lực liên lỉ của Giáo Hội trong việc bảo đảm rằng tất cả mọi người được thông phần vào ơn cứu độ được mang lại cho họ nhờ cái chết của Chúa Kitô. Như thế t́nh yêu mến đối với Giáo Hội sẽ trở thành ḷng mến yêu đối với Mẹ Maria, và ngược lại, v́ bên này không thể tách khỏi bên kia, như Thánh Chromatius ở Aquileia đă nhận định một cách sâu xa rằng: “Giáo Hội đă liên kết… ở Căn Thượng Lầu với Mẹ Maria Mẹ Chúa Giêsu và với anh em của Người, Bởi thế Giáo Hội không thể được nói tới như thế nếu Giáo Hội không bao gồm Mẹ Maria là Mẹ của Chúa chúng ta, cùng với anh em của Người” (90).  Bởi thế, tóm lại, chúng tôi muốn lập lại rằng việc tôn sùng đối với Đức Trinh Nữ cần phải hiển nhiên cho thấy nội dung sâu xa và giáo hội của nó, nhờ đó nó mới có thể cải cách được những h́nh thức và những văn bản một cách thích đáng.

 

 

Đon Hai

 

Bn Ch Dn cho Vic Sùng Kính Đức Trinh N: Tính Cách Thánh Kinh, Phng V, Đại Kết và Nhân Loi Hc

 

29.       Những quan tâm trên đây xuất phát từ việc cứu xét về mối liên hệ của trinh Nữ Maria với Thiên Chúa – Cha, Con và Thánh Thần – cũng như với Giáo Hội. Theo đường lối được giáo huấn của Công Đồng vạch vẽ (91), chúng tôi muốn thêm vào một số những chỉ dẫn nữa theo Thánh kinh, phụng vụ, đại kết và nhân loại học. Những chỉ dẫn này cần phải lưu ư ở bất cứ việc cải tổ nơi những thựa hành đạo đức hay nơi việc tạo nên những thực hành mới, để nhấn mạnh và đề cao mối liên hệ thắt kết chúng ta với Mẹ là Mẹ Chúa Kitô và là Mẹ của chúng ta trong mối hiệp thông các thánh.

 

30.       Ngày nay cần phải nh́n nhận như là một nhu cầu chung nơi ḷng đạo đức của Kitô giáo đó là hết mọi h́nh thức thờ phượng đều phải có dấu vết thánh kinh. Việc tiến bộ đạt được nơi những nghiên cứu về thánh kinh, việc phổ biến Thánh Kinh mỗi ngày một hơn, và nhất là mẫu gương của Truyền Thống cùng tác động nội tại của Thánh Linh đang có khuynh hướng làm cho Kitô giáo tân tiên sử dụng Thánh Kinh hơn bao giờ hết như là một cuốn sách cầu nguyện căn bản, và kín múc được từ đó ơn soi động chân thực cũng như những mẫu gương cao cả nhất. Việc sùng kính Đức Trinh Nữ cũng không thể được châm chước khỏi chiều hướng chung này của ḷng đạo đức Kitô giáo (92); thật vậy, nó cần phải kín múc hứng khởi một cách đặc biệt từ chiều hướng này để có được sinh lực mới và sự trợ giúp vững chắc. Nơi việc tŕnh bày tuyệt vời dự án của Thiên Chúa đối với ơn cứu độ của con người, Thánh Kinh tràn đầy những mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, và từ Sách Khởi Nguyên đến Sách Khải Huyền, cũng chất chứa những qui chiếu rơ ràng đến vị là Mẹ và là cộng tác viên của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, chúng tôi không muốn dấu vết thánh kinh này chỉ là một thứ chuyên cần sử dụng đến các bản văn cùng với những biểu hiệu được chọn lựa một cách khéo léo từ Thánh Kinh. Cần phải hơn thế nữa. Điều cần thiết ở đây đó là những sách kinh nguyện và ca nguyện cần phải lấy cảm hứng và lời lẽ của ḿnh từ Thánh Kinh, và nhất là việc tôn sùng vị Trinh Nữ này cần phải được thấm nhuần những đề tài trọng đại từ sứ điệp Kitô giáo. Điều này sẽ bảo đảm rằng, khi họ tôn kính Ngai Ṭa của Đức Khôn Ngoan này, th́ ngược lại, tín hữu sẽ được soi sáng bởi lời thần linh, và được soi động để sống cuộc đời của ḿnh theo những chỉ thị của Đức Khôn Ngoan Nhập Thể.

 

31.       Chúng tôi đă nói về việc tôn kính được Giáo Hội giành cho Người Mẹ của Thiên Chúa trong việc cử hành phụng vụ thánh. Tuy nhiên, khi nói tới những h́nh thức tôn sùng khác cùng với những tiêu chuẩn mà những h́nh thức tôn sùng này cần phải dựa vào, chúng tôi muốn nhắc lại tiêu chuẩn được đề ra trong Hiến Chế Sacrosanctum Concilium về Phụng Vụ Thánh. Văn kiện này, trong khi nhiệt t́nh chuẩn nhận những việc thựa hành đạo đức của dân Kitô giáo, đă tiếp tục nói rằng: “… tuy nhiên, những việc tôn sùng này, bằng việc lưu ư tới những mùa phụng vụ, cần phải được sắp xếp để làm sao ḥa hợp với phụng vụ thánh. Chúng phải làm sao để có thể cảm thấy hứng khởi từ phụng vụ, và v́ vai tṛ đệ nhất của phụng vụ thánh, chúng phải hướng dân Kitô giáo về phụng vụ thánh” (93). Mặc dù đó là một qui luật khôn ngoan và minh bạch, nhưng việc áp dụng qui luật này không phải là một vấn đề dễ dàng, nhất là liên quan tới những việc tôn sùng Thánh Mẫu, những việc rất khác nhau về những bày tỏ chính thức của chúng. Đối với phần vụ của trhành phần lănh đạo nơi các cộng đồng địa phương th́ điều cần đó là nỗ lực, cảm quan mục vụ và sự kiên tŕ, c̣n phần tín hữu cần phải tỏ ra s8ăn sàng chấp nhận những điều hướng dẫn và tư tưởng được rút tỉa từ bản chất đích thực từ việc tôn thờ của Kitô giáo; đôi khi điều nàykhiến phải thay đổi những tục lệ lâu đời đă trở nên lu mờ một cách nào đó trước bản chất thực sự của việc tôn thờ Kitô giáo này. 

 

Theo chiều hướng này, chúng tôi muốn đề cập tới hai thái độ mà theo thực hành mục vụ có thể vô hiệu hóa tiêu chuẩn này của Công Đồng Chung Vaticanô II. Trước hết có một số người quan tâm tới việc chăm sóc các linh hồn,  thành phần khinh thường một cách chủ quan những việc tôn sùng của ḷng đạo đức có những h́nh thức đúng đắn đă được khuyến khích bởi huấn quyền, thành phần loại trừ chúng và v́ thế tạo nên một thứ trống rỗng không được họ viên trọn. Họ quên rằng Công Đồng này đă nói là những việc tôn sùng của ḷng đạo đức nào ḥa hợp với phụng vụ th́ không được dẹp bỏ. Sau nữa, có những người, không căn cứ vào những tiêu chuẩn lành mạnh về phụng vụ và mục vụ, đă pha trộn những việc thực hành đạo đức với những tác động phụng vụ nơi những cử hành lai căng. Đôi khi xẩy ra là những tuần chín ngày hay những việc thực hành tương tự được xen kẽ vào chính việc cử hành Hy Tế Thánh Thể. Điều này là những ǵ tạo nên sự nguy hiểm ở chỗ Lễ Nghi Tưởng Niệm về Chúa, thay v́ là tột đỉnh của việc qui tụ của cộng đồng Kitô hữu, lại thực sự trở thành dịp thực hành việc sùng kính. Đối với những ai làm như thế, chúng tôi muốn nhắc lại qui luật được đề ra bởi Công Đồng này, qui định rằng những việc thực hành của ḷng đạo đức cần phải ḥa hợp với phụng vụ chứ không được tháp nhập vào phụng vụ. Hành động khôn khéo của mục vụ, một đàng cần phải vạch ra và nhấn mạnh đến bản chất thích đáng của các tác động phụng vụ, đàng khác, cần phải đề cao gaí trị của những thực hành của ḷng đạo đức để thích ứng chúng với các nhu cầu của những cộng đồng riêng trong Giáo Hội và làm cho chúng trở thành những trợ giúp sáng giá cho phụng vụ.

 

32.       V́ tính chất giáo hội của ḿnh, việc tôn sùng Đức Trinh Nữ là những ǵ phản ảnh các mối bận tâm của chính Giáo Hội. Trong những mối bận tâm này, nhất là trong thời đại của chúng ta đây, đó là niềm tha thiết của Giáo Hội đối với việc tái thiết mối hiệp nhất Kitô giáo. V́ thế, việc tôn sùng Người Mẹ của Chúa cũng ḥa hợp với những ước muốn sâu xa và mục đích của phong trào đại kết, tức là có chiều kích đại kết. Sở dĩ như vậy là v́ một số lư do.

 

Trước hết, trong việc tôn kính bằng một ḷng đặc biệt yếu mến Người Mẹ Thiên Chúa vinh hiển và trong việc tuyên xưng Mẹ là “Niềm Hy Vọng của Kitô hữu” (94), người Công Giáo liên kết ḿnh với những người anh chị em thuộc các Giáo Hội Chính Thống là những giáo hội có ḷng sùng kính Đức Trinh Nữ qua những bộc lộ của ḿnh nơi thi ca tuyệt vời cũng như nơi tín lư vững chắc. Người Công Giáo cũng liên kết với tín hữu Anh Giáo, một cộng đồng có những thần học gia cổ điển đă chú trọng tới nền tảng lành mạnh từ thánh kinh đối với ḷng sùng kính Người Mẹ của Chúa, và những thần học gia ngày nay đang càng ngày càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vị thế Mẹ Maria nơi đời sống của Kitô hữu. Khi chúc tụng Thiên Chúa bằng chính những lời của Vị trinh Nữ này (cf Lk 1:46-55), người Công Giáo cũng liên kết với anh chị em thuộc các Giáo Hội Cải Cách vốn triển nữ ḷng yêu chuộng Thánh Kinh.

 

Đối với những tín hữu Công Giáo, việc tôn sùng Người Mẹ của Chúa Kitô và là Người Mẹ của Kitô hữu cũng là một cơ hội theo tự nhiên và thường xuyên trong việc xin Mẹ chuyển cầu cùng Con Mẹ cho việc đạt được mối hiệp nhất của toàn thể thành phần lănh nhận phép rửa trong một Dân Chúa duy nhất (95). Tuy nhiên, chiều kích đại kết nơi việc tôn sùng Thánh Mẫu được tỏ ra nơi ước muốn của Giáo Hội Công Giáo, cho dù không được lệch ra khỏi tính chất đặc thù của việc tôn sùng này (96), cũng phải hết sức cẩn thận để tránh đi bất cứ những thái quá có thể khiến cho anh chị em Kitô hữu khác hiểu lầm về tín lư chân thực của Giáo Hội Công Giáo (97). Cũng thế, Giáo Hội mong muốn rằng cần phải loại trừ bất cứ bày tỏ nào nơi việc sùng kính có tính cách ngược lại với việc thực hành đúng đắn của Công giáo.

 

Sau hết, v́ theo tự nhiên nơi việc thực sự sùng kính Đức Trinh Nữ “Người Con cần phải được nhận biết, yêu mến và tôn vinh một cách xứng đáng… khi Người Mẹ được kính tôn” (98), mà việc tôn sùng như thế là một đường lối đến cùng Chúa Kitô là nguồn mạch và là tâm điểm của mối hiệp thông giáo hội, một mối hiệp thông mà tất cả những ai công khai tuyên xưng rằng Người là Thiên Chúa và là Chúa, là Đấng Cứu Thế và là vị trung Gian duy nhất (cf. 1Tim 2:5), đều được kêu gọi nên một, với nhau, với Chúa Kitô và với Cha trong sự hiệp nhất của Thánh Linh (99).

 

33.       Chúng tôi nhận thấy rằng có những khác nhau hệ trọng giữa ư nghĩ của nhiều anh chị em của chúng ta ở những Giáo Hội và những cộng đồng giáo hội khác với tín lư Công giáo về “vai tṛ của Mẹ Maria trong công cuộc cứu độ” (100). Bởi thế cũng có những ư nghĩ khác nhau về việc tôn sùng cần phải được tỏ ra với Mẹ. Tuy nhiên, v́ cùng một quyền năng của Đấng Tối Cao đă bao phủ Vị Trinh Nữ Nazarét này (cf Lk 1:35) và là quyền năng ngày nay đang hoạt động trong phong trào đại kết và làm cho phong trào này sinh hoa kết trái, chúng tôi muốn bày tỏ niềm tin tưởng của chúng tôi là việc tôn sùng đối với người tỳ nữ thấp hèn của Chúa, Vị đă được Đấng Toàn Năng thực hiện những điều cao trọng (cf Lk 1:49), sẽ trở nên, cho dù một cách chậm chạp, không phải là một chướng ngại mà là một đường lối và là một tu 5 điểm cho mối hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Chúa Kitô. Chúng tôi thực sự cảm thấy hân hoan khi thấy rằng cả ở nơi những người anh chị em ly khai của chúng tôi việc hiểu biết hơn về vị thế của Mẹ Maria trong mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Giáo Hội đang là những ǵ thuận lợi cho con đường dẫn đến mối hiệp nhất. Như ở Cana, việc can thiệp của Đức Trinh Nữ đă làm cho Chúa Kitô thực hiện phép lạ đầu tiên của Người (cf Jn 2:1-12) thế nào, th́ ngày nay cũng thế, việc can thiệp của Mẹ có thể giúp mang lại việc hiện thực hóa thời điểm thành phần môn đệ của Chúa Kitô sẽ t́m lại được mối hiệp thông trọn vẹn trong đức tin. Niềm hy vọng này của chúng tôi được củng cố bởi lời nhận định của vị tiền nhiệm Lêô XIII của chúng tôi, vị đă viết rằng nguyên do của mối hiệp nhất Kitô giáo “liên quan một cách thích đáng với vai tṛ làm mẹ thiêng liêng của Đức Maria. V́ Mẹ Maria đă không sinh ra và không thể nào sinh ra những ai thuộc về Chúa Kitô, nếu không bằng một đức tin duy nhất và t́nh yêu duy nhất: v́ ‘phải chăng Chúa Kitô bị chia cắt?’ (1Cor 1:13) Tất cả chúng ta đều phải cùng nhau sống sự sống của Chúa Kitô, nhờ đó trong cùng một thân thể duy nhất, ‘chúng ta có thể sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa’ (Rm 7:4)’” (101).

 

34.       Việc tôn sùng Đức Trinh Nữ cũng cần phải cẩn thận chú ư tới một số khám phá mới về khoa học nhân bản. Điều này giúp loại trừ một trong những nguyên nhân gây ra những khó khăn xẩy ra trong việc tôn sùng Người Mẹ của Chúa, tức là cái trái nghịch giữa một số khía cạnh của việc tôn sùng này với những khám phá mới về nhân loại học cùng với những thay đổi sâu xa nơi lănh vực tâm lư xă hội là lănh vực theo đó con người sinh sống và hoạt động. H́nh ảnh về Đức Trinh Nữ được tŕnh bày theo một kiểu mẫu nào đó nơi văn chương sùng mộ không phải là những ǵ dễ dàng ḥa hợp với lối sống của ngày hôm nay, nhất là cách thức sống của phụ nữ ngày nay. Ở nhà, vấn đề b́nh đẳng và tương đương với nam nhân trong việc điều hành gia đ́nh đang được luật pháp cùng với vấn đề tiến hóa của tập tục chính đáng nh́n nhận. Nơi lănh vực chính trị, phụ nữ ở nhiều quốc gia nắm giữ vị thế cân bằng với vị thế của nam nhân. Ở lănh vực xă hội, phụ nữ làm việc ở hết mọi nghành nghề khác nhau, hằng ngày xa rời hơn nữa với môi trường hạn hẹp trong gia đ́nh. Ở lănh vực văn hóa, những cơ hội mới đang được mở ra cho nữ giới trong việc nghiên cứu khoa học và những hoạt động về tri thức.

 

Từ những hiện tượng này, một số người đang trở nên tỉnh ngộ trước việc tôn sùng Đức Trinh Nữ và cảm thấy khó noi gương bắt chước người nữ Maria Nazarét v́ những chân trời cuộc đời của Mẹ, như họ nói, như thể bị hạn hẹp so với lănh vực hoạt động bao rộng mở ra cho nhân loại ngày nay. Về vấn đề này, chúng tôi kêu gọi các thần học gia, những người có trách nhiệm với những cộng đồng Kitô hữu địa phương và chính thành phần tín hữu hăy xem xét những khó klhăn này một cách cẩn thận. Đồng thời chúng tôi muốn lợi dụng dịp này để cống hiến việc đóng góp riêng của chúng tôi vào vấn đề giải quyết những khó khăn ấy bằng một số nhận định sau đây.

 

35.       Trước hết, Trinh Nữ Maria bao giờ cũng được Giáo Hội nêu lên cho thành phần tín hữu như là một mẫu gương cần phải noi theo bắt chước, không phải chính xác như loại đời sống của Mẹ, nhất là đối với bối cảnh về văn hóa xă hội Mẹ sống, một bối cảnh ngày nay khó thấy ở bất cứ nơi nào. Mẹ được nêu gương cho thành phần tín hữu thật ra là v́ đường lối Mẹ hoàn toàn ư thức chấp nhận ư muốn của Thiên Chúa (cf Lk 1:38) nơi cuộc sống riêng biệt của Mẹ, v́ Mẹ nghe lời Chúa và đáp ứng, và v́ đức bác ái và tinh thần phục vụ là động lực cho các hành động của Mẹ. Mẹ xứng đáng bắt chước v́ Mẹ là môn đệ trên hết và tuyệt nhất của Chúa Kitô. Tất cả những điều ấy đều có một giá trị mô phạm vĩnh viễn và phổ quát.

 

36.       Sau nữa, chúng tôi muốn vạch ra rằng những khó khăn được ám chỉ trên đây là những khó khăn liên hệ chặt chẽ với những khía cạnh về h́nh ảnh của Mẹ Maria được thấy nơi những bản văn phổ thông. Chúng không liên hệ với h́nh ảnh Phúc Âm về Mẹ Maria hay với những dữ kiện tín lư là những ǵ trở nên rơ ràng qua một tiến tŕnh chậm răi và tỉ mỉ của việc rút tỉa từ Mạc Khải. Cần phải coi là hoàn toàn b́nh thường đối với các thế hệ theo nhau của Kitô hữu ở những môi trường văn hóa xă hội khác nhau trong việc bày tỏ những cảm thức của ḿnh về Người Mẹ của Chúa Giêsu bằng những đường lối và cách thức phản ảnh thời đại của họ. Trong việc chiêm ngưỡng Mẹ Maria và sứ vụ của Mẹ, những thế hệ Kitô hữu khác nhau này, khi nh́n lên Mẹ như Người Nữ Mới và là Kitô Hữu trọn hảo, đă thấy nơi Mẹ như là trinh nữ, là người phối ngẫu và là mẹ, kiểu mẫu trổi vượt về vai tṛ nữ giới và mẫu gương nổi bật về cuộc đời sống theo Phúc Âm và gồm tóm những t́nh trạng đặc biệt nhất của đời sống một người phụ nữ. Khi Giáo Hội lưu tâm tới lịch sử dài về việc tôn sùng Thánh Mẫu, Giáo Hội hân hoan trước việc liên tục của yếu tố sùng bái nơi việc tôn sùng này, nhưng Giáo Hội không liên kết ḿnh với bất cứ việc bày tỏ đặc biệt nào của một giai đoạn văn hóa riêng hay với những ư nghĩ đặc biệt nào về nhân loại học nằm dưới những bày tỏ như thế. Giáo Hội hiểu rằng một số bày tỏ bề ngoài về tôn giáo, cho dù hoàn toàn tự ḿnh có giá trị, cũng ít thích đáng với con người nam nữ ở những thời đại và văn hóa khác nhau.

 

37.       Sau hết, chúng tôi muốn vạch ra cho thấy rằng thời đại của chúng ta, không thua ǵ những thời trước kia, được kêu gọi chứng thực kiến thức của ḿnh về thực tại bằng lời Chúa, và, trong việc giữ cho vấn đề quan tâm được hiện đại, so sánh những ư nghĩ về nhân loại học của nó cùng với những vấn đề xuất phát từ đó với h́nh ảnh về Trinh Nữ Maria như được tŕnh bày trong Phúc Âm. Việc đọc Thánh Kinh thần linh, được thực hiện theo Thánh Linh hướng dẫn, và với những khám phá về các khoa nhân bản học cùng với những t́nh trạng khác nhau trên thế giới hôm nay đang được chú ư tới, sẽ giúp chúng ta thấy được cách thức Mẹ Maria có thể được coi như là một tấm gương cho những niềm mong đợi của con người nam nữ thuộc thời đại của chúng ta. Bởi vậy, người phụ nữ tân tiến, nhiệt t́nh tham dự vào quyền quyết định nơi những sự vụ của cộng đồng, sẽ sâu xa hân hoan chiêm ngưỡng Mẹ Maria là vị, được đối thoại với Thiên Chúa, đă tỏ ra chủ động và sáng suốt chấp nhận (102), không phải để giải quyết một vấn đề ngẫu nhiên, mà là cho “một biến cố có tầm vóc hệ trọng toàn cầu”, như biến cố Lời Nhập Thể đă đáng được gọi như thế (103). Người phụ nữ tân tiến sẽ cảm nhận rằng việc chọn lựa sống đời khiết trinh, một thứ khiết trinh theo dự án của Thiên Chúa đă sửa soạn cho Mẹ đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể, không phải là một thứ loại trừ bất cứ giá trị nào của đời sống hôn nhân mà là một chọn lựa can đảm Mẹ thực hiện để thánh hiến ḿnh hoàn toàn cho t́nh yêu Thiên Chúa. Người phụ nữ tân tiến sẽ bỡ ngỡ hỉ hoan nhận thấy rằng Đức Maria Nazarét, trong lúc hoàn toàn hiến thân theo ư muốn của Thiên Chúa, vẫn không phải chỉ là một phụ nữ rụt rè thuần phục hay là một con ngườicó ḷng đạo hạnh có khuynh hướng xa rời với những người khác; trái lại, Mẹ là một người nữ không ngần ngại loan báo rằng Thiên Chúa bênh đỡ người khiêm hạ và người bị áp bức, và hạ bệ thành phần quyền uy trên thế gian này (cf Lk 1;51-53). Người phụ nữ tân tiến sẽ nhận thấy nơi Mẹ Maria, vị “nổi bật trong thành phần nghèo khó và khiêm hèn của Chúa” (104), một phụ nữ quyền năng, vị trải qua cảnh nghèo khổ và đau khổ, trốn lánh và lưu đầy (cf Mt 2:13-23). Đó là những trường hợp không thể nào thoát được sự chú ư của những ai muốn ủng hộ, theo tinh thần Phúc Âm, những năng lực giải phóng của con người và của xă hội. Và Mẹ Maria sẽ xuất hiện không phải như là một Người Mẹ chỉ hoàn toàn quan tâm tới Người Con thần linh của riêng Mẹ, mà là như một người nữ thực hiện những hoạt động để giúp vào việc củng cố đức tin nơi Chúa Kitô của cộng đoàn tông đồ (cf Jn 2:1-12), và là người nữ có vai tṛ làm mẹ được mở rộng và trở nên phổ quát trên Đồi Canvê (105). Đó chỉ là những thí dụ, những thí dụ rơ ràng cho thấy rằng h́nh ảnh Đức Trinh Nữ này không làm vỡ mộng bất cứ niềm mong đợi sâu xa nào của con người nam nữ trong thời đại của chúng ta, nhưng cống hiến cho họ một mô phạm hoàn hảo về người môn đệ của Chúa: một người môn đệ trong khi xây dựng thành đô trần gian và tạm gửi này vẫn là một kẻ lữ hành chuyên chăm hướng về thành đô thiên quốc và vĩnh cửu; thế nhưng, trên hết, một người môn đệ là nhân chứng chủ động cho một t́nh yêu kiến tạo nên Chúa Kitô nơi cơi ḷng của dân chúng.

 

38.       Trong vic cng hiến nhng hướng dn này, nhng hướng dn có ư làm cho thun li vn đề phát trin mt cách ḥa hp ca vic tôn sùng Người M này ca Chúa, chúng tôi coi là cơ hi thun li để lưu ư mt s nhng thái độ đạo đức không đúng đắn. Công Đồng Chung Vaticanô II đă ly thm quyn bác b c nhng ǵ thái quá v ni dung và h́nh thc là nhng ǵ thm chí làm sai lc tín lư ln nhng ǵ thin cn làm lu m ́nh nh và s v ca M Maria. Công Đồng cũng bác b mt s nhng lch lc v vic tôn sùng, chng hn như s nh d có tính cách phù phiếm, mt th c tin, thay thế cho nim tin cy, ch thun da vào nhng thc hành b ngoài để chng t vic trnh trng dn thân. Mt lch lc khác đó là tính cách cm t́nh cn ci và chóng phai tàn, rt xa l vi mt th tinh thn ca Phúc Âm đ̣i phi t ra hành động kiên tŕ và c th (106).  Chúng tôi tái khng định vic Công Đồng bài bác nhng thái độ và thc hành như thế. Chúng không hp vi Đức Tin Công Giáo và v́ thế chúng không được có ch đứng trong vic tôn th ca Công giáo. Vic thn trng bênh vc chng li nhng sai lm và lch lc y s là nhng ǵ mang li cho vic tôn sùng Đức Trinh N thêm vng mnh và thêm chân thc. Nó s làm cho vic tôn sùng này có mt nn tng vng chc, ch vic hc hi nhng ngun Mc Khi và vic chú trng ti nhng văn kin ca hun quyn s vượt trên vic nghiên cu thái quá để t́m kiếm nhng ǵ là mi m hay hin tượng phi thường. Nó s bo đảm rng vic tôn sùng này là nhng ǵ khách quan theo nhn định v lch s ca nó, và v́ lư do y cn phi loi tr đi hết nhng ǵ t tường là hoàng đường hay sai lm. Nó s bo đảm rng vic tôn sùng này có mt ni dung tín lư phù hp – v́ thế cn phi tránh vic tŕnh bày mt chiu v h́nh nh ca M Maria, vic tŕnh bày, v́ thái quá nhn mnh đến mt yếu t duy nht, gây tác hi đến h́nh nh chung v M trong Phúc Âm. Nó s làm cho vic tôn sùng này minh bch v động lc ca nó, v́ thế, hết nhng ǵ là tư li bt xng đều được cn thn loi b khi phm vi ca nhng ǵ là linh thánh.

 

39.       Sau hết, v́ cn thiết chúng tôi mun lp li rng mc đích ti hu ca vic tôn sùng Đức Trinh N đó là tôn vinh Thiên Chúa và dn Kitô hu ti vic dn thân sng đời hoàn toàn hp vi ư mun ca Ngài. Khi con cái ca Giáo Hi hip nht tiếng nói ca ḿnh vi tiếng nói ca mt người ph n vô danh trong Phúc Âm và tôn vinh Người M ca Chúa Giêsu mà thưa cùng Người rng: “Phúc thay ḷng đă cu mang Thày và vú đă cho Thày bú” (Lk 11:27), h s cm thy suy nghĩ trước câu tr li trang trng ca V Thày Thn Linh này: “Phúc hơn cho k nghe li Thiên Chúa và tuân gi” (Lk 11:28). Tht s là câu tr li đây t nó là li ca ngi M Maria mt cách sng động, như nhng v Giáo Ph khác nhau trong Giáo Hi đă gii thích (107) và Công Đồng Chung Vaticanô II đă khng định (108), câu tr li này dù sao cũng là li khuyên răn chúng ta hăy sng cuc đời ca ḿnh theo các gii răn ca Thiên Chúa. Nó cũng là mt âm vang v nhng li khác ca Chúa Cu Thế: “Không phi ai nói cùng Tôi rng: ‘Ly Chúa, Ly Chúa’ đều s được vào nước tri, nhưng là người làm theo ư mun ca Cha Tôi là Đấng trên tri” (Mt 7:21); và “các con là bn hu ca Thày nếu các con làm nhng ǵ Thày truyn cho các con” (Jn 15:14).  

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/paul_vi/apost_exhortations/documents/hf_p-vi_exh_19740202_marialis-cultus_en.html

 

Dẫn Nhập

Việc Tôn Sùng Đức Trinh Nữ Maria trong Tân Phụng Vụ

Việc Canh Tân Tôn Sùng Mẹ Maria

Việc Tôn Sùng Mẹ Maria: Kinh Truyền Tin và Kinh Mân Côi

Kết Luận

Lời Kết