Tổng Kết

 

Vị Tông Đồ sinh non:

“Ánh Sáng Chư Dân… cho tới tận cùng trái đất”

 

 

 

Đ

ể có một cái nhìn tổng quát được tạm gọi là đầy đủ và xác đáng về một vị Tuyệt Đại Tông Đồ như Thánh Phaolô, người chuyển dịch và biên soạn tập sách này xin được bày tỏ cảm nhận cá nhân của mình như sau.

 

 

 

Cốt Lõi Ơn Gọi và Sứ Vụ của Thánh Phaolô

 

Trước hết, nếu Kitô học là tất cả nền tảng cho thần học Kitô giáo, vì Lời Nhập Thể Vượt Qua là tột đỉnh của mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh, thì cốt lõi của đức tin Kitô giáo không phải chỉ ở chỗ tin vào biến cố Phục Sinh, mà ở chỗ tin vào căn tính của Đấng Phục Sinh.

 

Đúng thế, sở dĩ biến cố Phục Sinh xẩy ra là vì nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một con người đã bị lên án tử và thực sự tử giá trên đồi Canvê, vào một buổi chiều Thứ Sáu trong Tuần Lễ Vượt Qua của người Do Thái, dưới thời Quan Philatô làm tổng trấn xứ Giuđêa và Thượng Tế Anna và Caipha lãnh đạo Hội Đồng Đầu Mục Do Thái ấy, không phải là một con người thuần túy như hai tên trộm cướp bị đóng đanh với Người, mà là một vị Thiên Chúa Nhập Thể, Đấng Thiên Sai hằng được dân Do Thái trông mong, cũng là Đấng Cứu Thế được hứa cho toàn thể nhân loại ngay từ ban đầu sau nguyên tội. 

 

Thật vậy, nếu nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét phục sinh từ trong kẻ chết, đúng như lời Người đã loan báo cho các môn dệ của Người và lời Thánh Kinh viết về Người, thì Người quả thực là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái. Và nếu nhân vật  lịch sử Giêsu Nazarét ấy quả thực là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, thì Người chính là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại. Vì Người không phải chỉ được tiên báo sẽ cai trị trong nhà Đavid đến muôn đời và nước Người sẽ vô tận (xem Lk 1:32-33; 2Sam 7:12-13,16; Is 9:6; Dn 2:44,7:14), mà còn là Đấng Cứu Thế được hứa cho chung loài người ngay từ ban đầu (xem Gen 3:15), một Đấng Cứu Thế xuất thân từ giòng dõi dân Do Thái cho muôn dân (xem Jn 4:22; Gen 12:2-3, 26:4, 28:14).

 

Vì chàng thanh niên Saulê ở Tarsê thuộc chi tộc Banjamin hết sức nhiệt thành với đạo giáo cha ông của mình, chưa được lãnh nhận Thánh Thần trong Ngày Lễ Ngũ Tuần như các vị tông đồ, thành phần thậm chí ngay trước khi vị Sư Phụ Thần Linh của họ lên trời vẫn còn đầu óc quốc gia và chính trị về Đấng Thiên Sai (xem Acts 1:6), nên con người trẻ ấy đã cảm thấy hết sức chướng tai gai mắt trước “cái đường lối mới mẻ” (Acts 9:2) hoàn toàn ngược lại với Luật Moisen của chàng cũng như với tâm thức về Đấng Thiên Sai của dân chàng.

 

Thế nhưng, sau khi được Đấng Phục Sinh, qua “ánh sáng từ trời đột nhiên lóe lên” (Acts 9:3), đích thân tỏ mình ra cho trên con đường đi Đamascô của chàng, chàng đã nhận ra chân lý nơi Đấng chàng cho dù đã ngã ngựa vẫn còn tỉnh táo hỏi: “Ngài là ai?” (Acts 9:5). Dù không được Chúa Kitô trực tiếp ở với khi Người còn tại thế và được Người sai đi như Nhóm 12 thuộc thành phần chứng nhân tiên khởi mang danh Tông Đồ (xem Mk 3:13-19), chàng Saulê sau đó cũng đã thực sự trở thành “Tông Đồ” (câu 1 thư Rm; 1+2Cor; Gal; Eph; Col; 1+2Tim; Ti), dù sinh non (x 1Cor 15:9), và vì cũng hội đủ hai yếu tố chính yếu là được đích thân Chúa Kitô tỏ mình ra cho (xem Acts 9:3-7; Gal 1:11) và được chính Người sai đi (xem Acts 13:47).

 

Tuy nhiên, chàng Saulê không được Chúa Kitô tại thế tỏ mình và sai đi, Đấng bấy giờ chỉ mới sai Nhóm 12 tông đồ “đi đến với con chiên lạc nhà Yến Duyên” (Mt 10:6) thôi, mà là một Chúa Kitô Phục Sinh, một Chúa Kitô Thiên Sai của dân Do Thái đã trở thành Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại qua biến cố Phục Sinh của Người, Đấng sau khi sống lại từ trong kẻ chết đã sai các vị “đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật” (Mk 16:15) và “làm chứng nhân v Thày cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8).

 

Ơn gọi và sứ vụ của vị Tông Đồ sinh non Phaolô này bởi thế mới “là ánh sáng soi chư dân, là phương tiện cứu độ cho tới tận cùng trái đất” (Acts 13:47). Phải chăng đó cũng là lý do cuốn Phúc Âm được môn sinh của ngài là Thánh Ký Luca viết là cuốn phúc âm được liệt kê thứ ba trong bộ 4 phúc âm, như Thánh Ký Gioan thị kiến thấy và diễn tả trong Sách Khải Huyền, “có diện mạo con người” (Rev 4:7), một phúc âm quả thực chất chứa những dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa liên quan đặc biệt tới Dân Ngoại? Và phải chăng đó cũng là lý do, cun Tông Vụ, một cuốn có thể được hiểu ngậm là cuốn Phúc Âm thứ 5, cuốn phúc âm về Thánh Linh với sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội (xem Jn 15:26-27) “ở Giêsusalem, khắp Giuđêa và Samaria… cho tới tận cùng trái đất”, nhưng phần lớn và chính yếu của cuốn sách sử thứ năm thuộc bộ Thánh Kinh Tân Ước này lại đặc biệt liên quan tới ơn gọi và sứ vụ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô?

 

Quả vậy, tất cả tâm tưởng và cảm nghiệm thần linh của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này, sau khi được Đấng Phục Sinh tỏ mình ra cho và chiếm đoạt, đã hoàn toàn vượt ra khỏi lãnh giới Cựu Ước để hướng về chân trời Tân Ước, đã vượt lên trên Lề Luật để chiều theo Thần Linh, đã không còn phân cách mà là đại đồng. Có thể nói và tóm gọn như thế này về Thánh Phaolô, đó là tất cả cảm nghiệm thần linh về tu đức của ngài và giáo huấn tin mừng về thần học của ngài đều được bắt nguồn từ Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái được sai đến như Đấng Cứu Thế của nhân loại..

 

7 Yếu Tố Chính Yếu nơi Giáo Huấn Thánh Phaolô

 

Sau đây là 7 yếu tố chính yếu đan kết lại thành giáo huấn của ngài, vừa liên quan tới tu đức lẫn thần học.

 

Yếu tố thứ nhất liên quan tới tâm lý học và luân lý học: “Con người yêu tối tăm hơn ánh sáng, vì việc làm của họ gian ác. Ai làm điều dữ thì ghét ánh sáng; họ không muốn đến gần ánh sáng vì sợ những việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19:20); “tinh thần thì mau mắn nhưng bản chất lại bạc nhược” (Mt 26:41).

 

Thánh Phaolô đã bày tỏ và cho thấy cái yếu đuối bất lực của bản tính con người nói chung đã bị hư đi theo nguyên tội, cái tình trạng căng thẳng đầy những tuyệt vọng nơi nội tâm của con người không thể tự cứu được mình trước quyền lực của tội lỗi và sự chết nếu không được giải cứu bởi Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô: “Tôi là loài xác thịt yếu đui bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. Tôi thậm chí không thể hiểu được những hành động của mình nữa. Tôi không làm những gì tôi muốn làm mà là những gì tôi ghét…Việc xẩy ra đó là tôi làm không phải là điều thiện tôi muốn làm mà là điều dữ tôi không có ý định làmTôi là một con người khốn nạn là chừng nào? Ai có thể cứu tôi khỏi cái thân xác đang bị khống chế bởi quyền lực sự chết này? Tạ ơn Thiên Chúa là đã có Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7:24-25).

 

Yếu tố thứ hai liên quan tới khoa Kitô học: “Thày là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến đưc với Cha mà không qua Thày” (Jn 14:6); “Tôi đến cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn(Mt 16:16).

 

Chúa Kitô chính là Đấng được sai đến như Đấng Cứu Thế để giải cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết (x. Heb 5:8-9,9:26-28). Bởi vị thế, vai trò và quyền năng của Người, như Thánh Phaolô xác tín:Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử của tất cả mọi tạo vật. Nơi Người, tất cả mọi sự trên trời dưới đất đã được tạo dựng, những vật hữu hình và vô hình… tất cả mọi sự đã được dựng nên nhờ Người và cho Người. Người có trước tất cả  mọi sự. Nơi Người tất cả mọi sự tiếp tục hiện hữu… “ (Col 1:15-17). “Người Con này là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha, và Người bảo trì tất cả mọi sự bằng lời quyền năng của Người” (Heb 1:3); “Người tuy là Thiên Chúa nhưng không tự cho mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, mà đã tự hủy mình ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi, sinh ra như loài người, và sống như phàm nhân. Người đã tự hạ và đã vâng lời cho đến chết, cho dù có chết trên thập giá. Bởi thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Để khi nghe tên Giêsu thì mọi đầu gối ở trên trời, dưới mặt đất và trong âm phủ phải quì xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa cho vinh danh Thiên Chúa là Cha” (Phil 2:6-11).

 

Yếu tố thứ ba liên quan tới Bí Tích học: “Không ai có th  vào vương quốc của Thiên Chúa nếu không được tái sinh bởi nước và Thần Linh. Xác thịt thì sinh ra xác thịt, Thần Linh thì sinh ra thần trí” (Jn 3:5); Ai tin vào tin mừng và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị luận phạt(Mk 16:16).

 

Thánh Phaolô đã cho biết con người yếu đuối bất lực, con người thế gian tự nhiên xu hướng và sống theo xác thịt không thể đẹp lòng Thiên Chúa (xem Rm 8:5-8), muốn cởi bỏ con người cũ mà trở thành con người mới, thành tạo vật mới, họ cần phải: trước hết tin vào Chúa Kitô, “Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (1Tim 2:5), và sau nữa phải được mai táng với Chúa Kitô để đưc sống lại với Người bằng Phép Rửa. Tin vào Chúa Kitô: “Tất cả mọi người đều đã phạm tội và bị mất đi vinh quang của Thiên Chúa. Tất cả mọi người giờ đây dù bất xứng cũng đã được công chính hóa bởi tặng ân của Thiên Chúa, nhờ công ơn cứu chuộc nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhờ máu của Người Thiên Chúa đã làm cho Người trở thành phương tiện xóa tội cho tất cả những ai tin tưởng. Ngài đã làm như thế để tỏ ra sự công chính của Ngài, ở chỗ thứ tha tội lỗi đã vấp phạm trong quá khứ, để tỏ ra sự công chính của Ngài trong hiện tại bằng việc nhẫn nại, nhờ đó Ngài cho thấy Ngài là Đấng công chính và công chính hóa những ai tin tưởng vào Chúa Giêsu” (Rm 23-26); Rửa trong Chúa Kitô: Anh em không biết rằng chúng ta là những người đã được rửa trong Chúa Giêsu Kitô là được rửa trong cái chết của Người sao? Nhờ được rửa trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người, để như Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết nhờ vinh hiển của Chúa Cha thế nào, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới như vậy. Chúng ta biết rằng: con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Người, nhờ đó thân xác tội lỗi của chúng ta bị hủy diệt, và chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa” (Rm 6:3-6).

 

Yếu tố thứ bốn liên quan tới chiều kích Thánh Linh, Đấng “là Thần Chân Lý Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Jn 16:13), “Ngài sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thày đã nói với các con” (Jn 14:26).

 

Theo Thánh Phaolô, “ai không có Thần Linh của Chúa Kitô thì không thuộc về Chúa Kitô” (Rm 8:9), và “tất cả những ai được Thần linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa. Anh  em đã không lãnh nhận một thần trí của sự nô lệ đưa anh  em về lại với nỗi sợ hãi, mà là một thần trí của việc thừa nhận để anh  em có thể kêu lên rằng ‘Abba!’, (tức là ‘Cha ơi’). Chính vị Thần linh này làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Thế nhưng, nếu chúng ta là con cái thì chúng ta là những kẻ thừa tự nữa, thành phần thừa tự của Thiên Chúa, thừa tự với Chúa Kitô, chỉ khi nào chúng ta chịu khổ với Người để được vinh quang với Người” (Rm 8:14-17). “Vị Thần Linh này cũng giúp chúng ta trong nỗi yếu hèn của chúng ta, vì chúng ta không biết cầu nguyện làm sao cho phải, mà chính Thần linh chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả. Đấng thấu suốt cõi lòng biết được Thần Linh muốn nói những gì, vì vị Thần Linh này chuyển cầu cho các thánh như chính Thiên Chúa muốn” (Rm 8:26-27)

 

Yếu tố thứ năm liên quan tới chiều kích Giáo Hội học và Tu Đức học: “Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý… cho tất cả được hiệp nhất nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha… để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Jn 17:19-21); “Thần Chân Lý từ Cha đến và là Đấng chính Thày sai đến từ Cha, Ngài sẽ làm chứng cho Thày. Các con cũng phải làm chứng nữa, vì các con đã ở với Thày ngay từ ban đầu” (Jn 15:26-27). 

 

Nếu Giáo Hội được Thánh Phaolô ví như một thân thể, có đầu là Chúa Kitô, thì hồn sống của Nhiệm Thể Giáo Hội này chính là Thánh Thần, nguyên lý hiệp nhất về cơ cấu của Giáo Hội cũng như thừa tác vụ cùng đặc sủng trong Giáo Hội (xem 1Cor 12:4-11,12-13), một Giáo Hội nhờ đó luôn sống yêu thương giữa đầu là Chúa Kitô và thân là Giáo Hội, được nuôi dưỡng bằng một tấm bẻ duy nhất là Thánh Thể Chúa Kitô (xem 1Cor 10:17), một tình yêu trở thành chứng từ truyền giáo (xem Jn 13:35): “Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội. Người đã hiến mình cho Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội nên thánh hảo, thanh tẩy Giáo Hội nơi bể nước bằng quyền năng của lời, hầu hiện lên trước Người một Giáo Hội hiển vinh, thánh hảo và vô nhiễm, không tì tích và nhăn nheo hoặc bất cứ những gì như thế” (Eph 5: 25-27); về phần mình, được Chúa Kitô là đầu yêu thương và thánh hóa như thế, Giáo Hội phải như “người vợ phục tùng chồng trong mọi sự” (Eph 5:24), để làm sao, qua các phần thể của mình và cùng với các phần thể của mình là Kitô hữu ở mọi tầng lớp, mọi thời đại, có thể đạt đến tầm vóc thành toàn của Chúa Kitô là đầu (xem Eph 4:13-15), cho đến độ có thể nói “tôi sống như không phải tôi sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20).

 

Yếu tố thứ sáu liên quan tới chiều kích Cánh Chung: “Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20); “Các con sẽ lãnh nhận quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; rồi các con sẽ là những chứng nhân của Thày … cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8); “Giêsu là Đấng rời khỏi các người sẽ trở lại như các người đã thấy Người lên trời” (Acts 1:11).

 

V chiều kích cánh chung, Thánh Phaolô dạy rằng thân xác của con người, một khi được nên một với Chúa Kitô nhờ Phép Rửa, cũng được sống lại bởi Thánh Thần của Đấng đã làm cho thân xác của Chúa Kitô sống lại, và nhờ cuộc sống lại này của họ, như một cuộc biến đổi từ một hạt mầm trở thành cây (x 1Cor 15:35-49), thành phần con cái Thiên Chúa, toàn thể tạo vật cũng được giải phóng, được thông phần vào tự do vinh hiển của họ, để cuối cùng tất cả được nên trọn như Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, “hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28) “Nếu Thần Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh  em, thì Đấng đã làm cho Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết cũng sẽ làm cho thân xác chết chóc của anh  em được sự sống như vậy, nhờ Thần Linh của Ngài ngự trong anh  em” (Rm 8:11); “Thật vậy, toàn thể tạo vật đang ngong ngóng trông đợi tình trạng tỏ hiện của thành phần con cái Thiên Chúa… vì chính thế giới sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại để thông phần vào tình trạng tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19,21); Những ai Ngài biết trước thì Ngài cũng tiền định nên giống hình ảnh Con Ngài, để Người Con này trở thành trưởng tử của nhiều anh em. Những ai Ngài tiền định thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài kêu gọi thì Ngài công chính hóa và những ai Ngài công chính hóa thì Ngài cũng tôn vinh” (Rm 8:29-30). Thiên Chúa đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo thành thế gian, để chúng ta nên thánh hảo và vô tì tích trước nhan Ngài, được tràn đầy yêu thương; Ngài cũng tiền định cho chúng ta nhờ Chúa Giêsu Kitô được trở thành những đứa con thừa nhận – theo ý định và thỏa thích của Ngài – để tất cả có thể chúc tụng hồng ân vinh hiển Ngài đã ban cho chúng ta nơi Con yêu dấu của Ngài… Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự khôn ngoan thông hiểu tất cả mầu nhiệm này, đó là dự án Ngài muốn ấn định nơi Chúa Kitô, một dự án được thực hiện khi thời gian viên trọn; tức là dự án mang mọi sự trên trời dưới đất đặt dưới quyền lãnh đạo của Chúa Kitô… Ngài đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Chúa Kitô và như thế đã đặt Người lên làm đầu của giáo hội là thân mình của Người: tầm vóc viên mãn của Người là Đấng làm tràn đầy khắp cả vũ trụ này” (Eph 1:4-6,9-10,22-23)

 

Yếu tố thứ bảy liên quan tới chiều kích tuyển chọn và công chính hóa: “Không ai đến được với Tôi trừ phi được Cha là Đấng sai Tôi lôi kéo; Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:44); “Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên” (Jn 10:16).

 

Theo Thánh Phaolô, dự án cứu độ của Thiên Chúa theo chiều kích Cánh Chung bao gồm tất cả mọi người, đặc biệt là dân tộc của Ngài, một dân được vị Thiên Chúa chân thật duy nhất tỏ mình ra cho, và từ họ phát sinh một Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần. Bởi đó, theo mầu nhiệm cứu độ, thậm chí nhờ vào tình trạng cứng lòng không chịu chấp nhận Đấng Thiên Sai của họ là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh của Kitô giáo mà Dân Ngoại đã được cứu độ cho tới khi đủ số, và nhờ đó tới phiên thành phần dân tuyển chọn cũng được Thiên Chúa đoái thương thăm viếng và cứu độ: “Anh em ơi, tôi không muốn anh em chẳng biết gì về mầu nhiệm này kẻo anh em vênh vang lên mặt; đó là tình trạng mù quáng xẩy ra nơi Yến Duyên cho tới khi đủ số Dân Ngoại, và bấy giờ tất cả Yến Duyên sẽ được cứu độ… Về vấn đề phúc âm thì những người Do Thái là kẻ thù; về vấn đề tuyển chọn thì họ được Ngài yêu dấu nhờ các vị tổ phụ. Các tặng ân của Thiên Chúa và ơn gọi của Ngài là những gì bất khả vãn hồi” (Rm 11:25-29). Bấy giờ, dân Do Thái, như Dân Ngoại và chính bản thân Thánh Phaolô, một phần tử thuộc Phái Pharisiêu nhiệt thành, đều công nhận rằng: “Chúng ta là những người Do Thái bẩm sinh, không phải là thành phần tội nhân thuộc gốc gác Dân Ngoại. Tuy nhiên, vì biết rằng một con người không được công chính hóa nhờ việc tuân giữ luật lệ mà là nhờ niềm tin tưởng nơi Chúa Giêsu Kitô, mà cả chúng ta cũng đã tin nơi Người để được công chính nhờ niềm tin nơi Chúa Kitô, chứ không phải bằng việc giữ luật lệ; vì bằng việc tuân giữ lề luật sẽ không có một ai được cứu rỗi hết” (Gal 2:15-16).

 

Phải, chính đức tin này nơi ngài là những gì chất chứa tất cả mạc khải thần linh ngài nhận được (x. Gal 1:11,8-9) và rao giảng, bằng tất cả cảm nghiệm thần linh nội tâm cao siêu chất ngất đến tầng trời thứ ba (x. 2Cor 2:2-4), cũng như bằng việc hết mình dấn thân phục vụ trở nên mọi sự cho mọi người (x. 1Cor 9:22-23), thậm chí bằng việc chịu đựng mọi sự vì phúc âm cho đến cùng (x. 2Cor 4:10;11:16-33). Tất cả sứ vụ và phúc âm của vị Tông Đồ sinh non nhưng tuyệt hạng này đã được tóm mở ở ngay đầu toàn bộ thư tín của ngài: “Phaolô, người tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm tông đồ và được giành riêng để rao giảng phúc âm Thiên Chúa hứa từ lâu qua các tiên tri như Thánh Kinh đã ghi chép, phúc âm liên quan tới Con của Ngài, Đấng thuộc giòng dõi Đavít theo xác thịt, nhưng đã tỏ hiện là Con Thiên Chúa trong quyền năng theo tinh thần thánh thiện, bằng việc phục sinh từ trong cõi chết, đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Nhờ Người chúng tôi được phúc làm tông đồ để chúng tôi loan truyền danh Người và mang đức tin tuân phục đến cho tất cả Dân Ngoại, trong đó có cả anh em là những người đã được kêu gọi để thuôc về Chúa Giêsu Kitô… Tôi không hổ ngươi vì phúc âm này. Đó chính là quyền năng của Thiên Chúa dẫn mọi người tin tưởng đến ơn cứu độ, trước hết là Do Thái rồi tới Hy Lạp. Vì trong phúc âm này tỏ hiện sự công chính của Thiên Chúa là những gì  được bắt đầu và kết thúc nơi đức tin; như Thánh Kinh nói: ‘Người công chính sống bởi đức tin’” (Rm 1:1-6,16-17).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

NỘI DUNG

 Lời Giới Thiệu..................................................5

 Với Năm Thánh Phaolô

 1- Thánh Phaolô - Vẫn Hiện Đại (bài Giảng Khai Mạc)........7

2- Thánh Phaolô: Công Giáo - Thánh Phêrô: Hiệp Nhất..18

 Cho Năm Thánh Phaolô

 1 -   Thánh Phaolô - Bối Cảnh Lịch Sử.................................27

2-    Thánh Phaolô - Tiểu Sử…………….....………...……..35

3-    Thánh Phaolô - Trở Lại..................................................46

4-    Thánh Phaolô - Tông Đồ................................................54

5-    Thánh Phaolô – Truyền Thống……….....……………62

6-    Thánh Phaolô - Hộ Giáo................................................70

7-    Thánh Phaolô - Ý Thức Chúa Kitô...............................79

8-    Thánh Phaolô - Ý Nghĩa Giáo Hội...............................88

9-    Thánh Phaolô - Khoa Kitô Học.....................................97

10-  Thánh Phaolô –Thần Học Thập Giá...........................106

11-  Thánh Phaolô - Biến Cố Phục Sinh............................115

12-  Thánh Phaolô – Đợi Chờ Tái Giáng...........................125

13-  Thánh Phaolô - Công Chính Hóa...............................135

14-  Thánh Phaolô - Đức Tin qua Đức Ái.........................144

15-  Thánh Phaolô - Tân Adong Kitô................................152

16-  Thánh Phaolô - Các Bí Tích.........................................162

17-  Thánh Phaolô - Tôn Thờ Đích Thực...........................173

18-  Thánh Phaolô - Chúa Kitô là Đầu..............................184

19-  Thánh Phaolô - Ba Mục Vụ Thư.................................195

20-  Thánh Phaolô – Qua Đời và Gia Sản..........................205

Trước Năm Thánh Phaolô 

1-  Thánh Phaolô - Tông Đồ 13…………….……………..216

2-  Thánh Phaolô - Hội Ngộ Thần Linh.............................223

3-  Thánh Phaolô – Chúa Thánh Thần..............................230

4-  Thánh Phaolô – Giáo Hội……………………………..237 

Trong Năm Thánh Phaolô 

1- Thánh Phaolô - Di Trú Nhân…………………………. 245  

2- Thánh Phaolô – Ơn Gọi Sống Tự Do………………….253  

Tổng Kết ....................................................269

 “Ánh Sáng Chư Dân”: Nhân Chứng Phục Sinh - Tông Đồ Hoàn Vũ