“Lòng nói với lòng - cor ad cor loquitur”

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Tông Du Hiệp Vương Quốc (The United Kingdom) 16-19/9/2010

 

 

Đaminh Maria Cao Tn Tĩnh, BVL, tng hp và chuyn dch

Theo mng đin toán toàn cu ca Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2010/index_regno-unito_en.htm 

  và

Zenit trong thời khoảng của chuyến tông du này

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tường trình tổng kết chuyến tông du Hiệp Vương Quốc

 

Lời tạ từ của Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc và Đức Thánh Cha: “Khi ngài nghĩ về xứ sở của chúng tôi, xin hãy nghĩ về nó như là một xứ sở chẳng những ấp ủ đức tin, mà còn là một xứ sở biết cảm thương sâu xa dù âm thầm”. 

 

Với Hội Đồng Giám Mục Hiệp Vương Quốc: vấn đề làm suy yếu trầm trọng uy tín về luân lý của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội

 

Với đại diện các giới trần thế: Nếu các nguyên tắc về luân lý chống đỡ cho tiến trình dân chủ được quyết định về chúng chỉ bởi sự đồng thuận xã hội thì tính chất mỏng dòn mong manh của tiến trình này trở nên quá hiển nhiên – cái thách đố thực sự đối với nền dân chủ nằm ngay ở chỗ này.

 

Về vấn đề tôn giáo với đại diện các tôn giáo: “tại sao có một cái gì đó còn hơn không có gì cả?”

 

Vấn đề đại kết Kitô giáo: "Giáo Hội được kêu gọi để bao gồm tất cả, nhưng không bao giờ ở chỗ hy sinh chân lý Kitô giáo. Vấn đề nan giải là ở chỗ đó đối với tất cả những ai thực sự dấn thân cho cuộc hành trình đại kết. "

 

Bài Giảng Lễ Thứ Bảy 18/9/2010: "Chúa chúng ta tiếp tục chịu khổ nạn nơi các phần tử của Nhiệm Thể của Người là Giáo Hội ở mọi thời đại"

 

Về Đức Hồng Y Tân Chân Phước John Henry Newman: Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi để làm một việc nhất định cho Ngài. Ngài đã ủy thác cho tôi một việc làm mà Ngài không trao phó cho người khác”

 

Huấn Dụ Thày Cô, Tu Sĩ và Học Sinh: "Giáo dục liên quan tới việc hình thành con người... một trường học Công giáo tốt cần phải giúp cho tất cả mọi học sinh sinh viên của mình trở thành những vị thánh";

 

Giảng lễ 16/9/2010; cái độc đoán của chủ nghĩa tương đối’;

 

Vấn Đáp trên máy bay với Giới Truyền Thông về Chuyến Tông Du Hiệp Vương Quốc: "tất cả các xứ sở Tây phương... chống giáo hội và chống Công giáo, thế nhưng họ cũng có một sự hiện diện mạnh mẽ của đức tin nữa";

 

Nữ Hoàng Elizabeth II ngỏ lời nghênh đón Đức Thánh Cha - Đức Thánh Cha đáp từ cùng Nữ Hoàng Elizabeth II - Hiện tình Giáo Hội ở Hiệp Vương Quốc

 

Tân Chân Phước John Henry Newman

 

Tổng Hợp Chuyến Tông Du Hiệp Vương Quốc của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về Chủ Đề "Lòng Nói Với Lòng"

 

 

 

Lời Chào Mừng của Nữ Hoàng Elizabeth II nghênh đón Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ở Dinh Holyroodhouse Thứ Năm 16/9/2010

 

Trọng Kính Đức Thánh Cha,

 

Tôi hân hoan nghênh đón ngài đến với Hiệp Vương Quốc và đặc biệt là đến với Tô Cách Lan nhân chuyến viếng thăm đầu tiên của ngài với tư cách là Giáo Hoàng. Tôi cảm thấy rất mãn nguyện nhớ lại chuyến viếng thăm mục vụ đáng ghi nhớ của cí6 Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở xứ sở này vào năm 1982. Tôi cũng còn những ký ức sống động về cuộc viếng thăm thứ tư của tôi ở Vatican, cũng như về việc gặp gỡ vài vị tiền nhiệm của ngài ở các dịp khác. Tôi hết sức tri ân các vị về việc ân cần nồng hậu tiếp đón một số phần tử thuộc gia đình của tôi trong những tháng năm qua.

 

Nhiều đổi thay trên thế giới này trong gần 30 năm từ cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nơi xứ sở này, chúng tôi hết sức tri ân việc tham gia của Tòa Thánh trong việc cải tiến đáng xúc động trong trường hợp ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Ngoài ra, cuộc sụp đổ của các chế độ chuyên chế độc tài ở khắp trung Âu và đông Âu đã mang lại cho hằng trăm triệu con người được sống tự do hơn. Tòa Thánh tiếp tục đóng một vai trò quan trọng nơi các vấn đề quốc tế, nơi việc ủng hộ hòa bình và phát triển, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề cung như tình trạng nghèo khổ và thay đổi khí hậu.

 

Thưa Đức Thánh Cha, sự hiện diện của ngài ở đây hôm nay nhắc nhở chúng tôi về cái di sản Kitô giáo chung của chúng ta, cũng như về việc góp phần của Kitô giáo vào việc đẩy mạnh hòa bình thế giới, và vào việc phát triển kinh tế và xã hội nơi các xứ sở kém thịnh vượng trên thế giới. Tất cả chúng tôi đều thấy được việc đặc biệt góp phần của Giáo Hội Công Giáo Rôma nhất là nơi thừa tác vụ của mình cho thành phần nghèo khổ nhất cũng như cho các phần tử bị hụt hẫng nhất trong xã hội, việc giáo hội này chăm sóc cho thành phần vô gia cư cũng như cho việc giáo dục với một hệ thống trường học bao rộng.

Tôi biết rằng vấn đề hòa giải là đề tài chính trong đời sống của Hồng Y John Henry Newman, vị được ngài cử hành Lễ phong Chân Phước vào Chúa Nhật tới đây. Là một con người đã chống chọi với ngờ vực và bất định, việc đóng góp của vị hồng y này vào việc hiểu biết Kitô giáo là những gì tiếp tục anh hưởng đến nhiều người. Tôi hoan hỉ thấy rằng cuộc viếng thăm của ngài cũng sẽ cung cấp một cơ hội để đào sâu vào mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với Giáo Hội Anh Giáo được thiết lập và Giáo Hội Tô Cách Lan.

 

Thưa Ngài Giáo Hoàng, trong thời gian gần đây ngài đã nói rằng “các tôn giáo không bao giờ có thể trở thành phương tiện cho hận thù, không bao giờ sự dữ và bạo lực có thể được biện minh bằng việc nhân danh Thiên Chúa”. Ngày nay, ở xứ sở này, chúng tôi ủng hộ niềm xác tín ấy. Chúng tôi chủ trương rằng quyền tự do thờ phượng là cốt lõi của xã hội khoan dung và dân chủ của chúng tôi.

 

Thay cho nhân dân Hiệp Vương Quốc, tôi chúc ngài một cuộc viếng thăm tốt đẹp nhất và đáng nhớ nhất.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/9/2010

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

ĐTC đáp từ Nữ Hoàng Elizabeth II tại Dinh Holyroodhouse ở Edinburgh, Thứ Năm 16/9/2010

 

……

Danh xưng Holyroodhouse, nơi cư trú chính thức của nữ hoàng ở Tô Cách Lan, là những gì nhắc nhớ  “Thánh Giá” và cho thấy những căn gốc sâu xa Kitô giáo vẫn còn đang hiện hữu nơi hết mọi tầng lớp của  đời sống Anh quốc. Những vị hoàng gia Anh và Tô Cách Lan đã từng là Kitô hữu ngay từ những thời gian đầu và bao gồm những vị thánh đặc biệt như Edward the Confessor và Margaret of Scotland. Như nữ hoàng biết, nhiều vị trong họ đã thi hành một cách ý thức nhiệm vụ vương chủ của mình theo chiều hướng Phúc Âm, nhờ đó, đã hình thành quốc gia này được thiện hảo ở một tấm mức sâu xa nhất. Kết quả cho thấy là sứ điệp Kitô giáo đã trở thành một yếu tố nguyên vẹn nơi ngôn ngữ, tư tưởng và văn hóa của các dân tộc thuộc những hải đảo này trên cả ngàn năm. Việc cha ông của nữ hoàng tôn trọng sự thật và công lý, tôn trọng tình thương và bác ái được truyền đến nữ hoàng từ một đức tin vẫn còn mãnh liệt ở vương quốc của nữ hoàng, cho lợi ích lớn lao của Kitô hữu cũng như ngoài Kitô giáo.

 

Chúng ta thấy được nhiều gương mẫu của quyền năng cho thiện ích này dọc suốt giòng lịch sử của Anh quốc. Thậm chí ngay cả trong các thời gian tương đối gần đây, nhờ những nhân vật như William Wilberforce và David Livingstone, Anh quốc đã trực tiếp nhúng tay vào việc ngăn chặc cviệc buôn bán nô lệ quốc tế. Được tác động bởi đức tin, những vị nữ giới như Florence Nightingale đã phục vụ người nghèo cũng như các bệnh nhân và đã dề ra những tiêu chuẩn mới trong việc chăm sóc sức khỏe là những gì sau này được khắp nơi noi theo. John Henry Newman, vị tôi sẽ sắp phong chân phước, là một trong nhiều Kitô hữu Anh quốc thuộc thời đại của ngài, vị có lòng nhân từ, tài hùng biện và hoạt động là niềm vẻ vang cho thành phần đồng hương nam nữ của ngài. Những vị này, và nhiều người như các vị, đã được tác đôNhững vị này, và nhiều người như các vị, đã được tác động bởi một niềm tin sâu xa là những gì đã được nẩy sinh và dinh dưỡng ở các hải đảo này.

 

Ngay cả trong thời đại của chúng ta, chúng ta có thể nhớ lại việc Anh quốc cùng với các vị lãnh đạo của mình đã chống lại một thống chế của Nazi muốn tẩy chay Thiên Chúa ra khỏi xã hội và chối bỏ nhân tính chung của chúng ta đối với nhiều người, đặc biệt là đối với những người Do Thái, những người bị cho rằng không đáng sống. Tôi cũng nhớ đến thái độ của chế độ này đối với các vị mục tử Kitô giáo và thành phần tu sĩ Kitô giáo là những người đã nói sự thật trong yêu thương, chống lại thành phần Nazi và phải trả giá cho việc chống đối này bằng mạng sống của mình. Khi chúng ta suy nghĩ về những bài học bừng tỉnh của chủ nghĩa cực đoan vô thần trong thế kỷ 20, chúng ta đừng bao giờ quên rằng làm sao mà việc loại trừ Thiên Chúa, tôn giáo và đức hạnh ra khỏi đời sống công cộng cuối cùng dẫn đến một quan niệm bị hụt hẫng về con người cũng như về xã hội, bởi thế dẫn tới một “quan niệm suy giảm về con người và định mệnh của họ” (Caritas in Veritate, 29).

 

65 năm trước đây, Anh quốc đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc hình thành vấn đề đồng thuận quốc tế hậu chiến thuận lợi cho việc thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc….

Nhìn về phía trước, Hiệp Vương Quốc vẫn là một tên tuổi chính yếu về chính trị và kinh tế trên cầu trường quốc tế…. Ngày nay, Hiệp Vương Quốc đang nỗ lực trở thành một xã hội tân tiến và đa văn hóa. Trong công cuộc thánh đố này, chớ gì Hiệp Vương Quốc vẫn tỏ ra tôn trọng đối với những giá trị truyền thống cùng những biểu hiện về văn hóa bị những hình thức tục hóa ngày càng gia tăng không còn trân quí hay thậm chí chấp nhận. Chớ gì Hiệp Vương Quốc không làm mờ tối đi cái nền tảng Kitô giáo đang chống đỡ những quyền tự do của nó; và chớ gì cái gia sản ấy, một di sản đã luôn giúp ích nhiều cho quốc gia này, liên lỉ làm mẫu được Chính Quyền và nhân dân của nữ hoàng nêu lên trước hai tỉ phần tử của toàn thể Nhân Dân và đại gia đình chư quốc nói Tiếng Anh khắp thế giới.

 

………

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100916_incontro-autorita_en.html

 

 

Hiện Tình Giáo Hội Công Giáo ở Đại Anh Quốc

 

Theo Văn Phòng Thống Kê Trung Ương của Giáo Hội được cập nhật hóa ngày 31/12/2009, Đại Anh quốc có diện tích là 230.762 cây số vuông và dân số là 59.381.000 người, trong đó có 8.87% Công giáo, tức 5.264.000 tín hữu. Giáo Hội Công Giáo ở đây, về tổ chức nội bộ, có 32 giáo phận và 2.977 giáo xứ, với 59 giám mục, 5.225 linh mục, 6.497 tu sĩ, 160 tổ chức giáo dân và 34.669 giáo lý viên, 2 tiểu chủng sinh và 245 đại chủng sinh. Về lãnh vực xã hội, có 806.334 trẻ em và thanh thiếu niên học ở 2.828 trung tâm giáo dục của Công giáo, từ mẫu giáo tới đại học; có 8 bệnh viện do các linh mục hay tu sĩ điều hành, 1 bệnh xá, 171 nhà cho người già hay tật nguyền, 79 cô nhi viện và dưỡng nhi viện, 94 trung tâm tham vấn và các trung tâm phò sự sống, 147 trung tâm giáo dục và phục hồi xã hội, và 31 tổ chức các loại khác.

 

 

Vấn Đáp trên máy bay Thứ Năm 16/9/2010 với Giới Truyền Thông về Chuyến Tông Du Hiệp Vương Quốc

 

Cha Lombardi: Tâu Đức Thánh Cha, chúng con chào mừng Đức Thánh Cha đang ở giữa chúng con và chúng con xin cám ơn Đức Thánh Cha về việc Đức Thánh Cha sẵn sàng cho chúng con phỏng vấn. Chúng con là một nhóm 70 phóng viên từ các miền khác nhau trên thế giới. Tất nhiên có một số từ Hiệp Vương Quốc cũng muốn liên hợp với chúng con ngay từ ban đầu trên chuyến bay này. Như thường lệ, trong mấy ngày gần đây các đồng nghiệp của con đã nêu lên một số vấn nạn chúng con xin trình lên Đức Thánh Cha cho cuộc trao đổi đầu tiên mở đầu cho cuộc hành trình quan trọng và thách đố này, một cuộc hành trình chúng con hy vọng sẽ rất tốt đẹp. Con đã chọn một số vấn nạn từ những vấn nạn được nêu lên. Con sẽ hỏi Đức Thánh Cha bằng Tiếng Ý để Đức Thánh Cha khỏi mệt. Một số đồng nghiệp sẽ giúp cho những ai không hiểu tiếng Ý cho lắm.

 

Câu hỏi thứ nhất: trong thời gian sửa soạn cho chuyến viếng thăm này đã có những bàn luận và ý nghĩ trái nghịch nhau. Theo những truyền thống xưa của xứ sở này thì đã từng có những chủ trương mạnh mẽ chống Công giáo. Đức Thánh Cha có lo lắng về việc Đức Thánh Cha sắp được tiếp đón hay chăng?

 

Đức Thánh Cha: Trước hết, tôi chúc anh chị em một ngày sống tốt đẹp và một chuyến bay vui vẻ cho tất cả chúng ta. Tôi phải thú thực là tôi chẳng lo lắng gì hết, vì khi tôi đến Pháp quốc, một quốc gia đã có tiếng là chống giáo hội nhất, với những ý nghĩ mãnh liệt chống giáo hội và có rất ít tín hữu; khi tôi đến Cộng Hòa Tiệp, một quốc gia bị tiếng là vô tín ngưỡng nhất Âu Châu và cũng chống giáo hội nhất. Phải, tất cả các xứ sở Tây phương, mỗi nơi tùy theo cách thức của mình, có những ý nghĩ mạnh mẽ chống giáo hội và chống Công giáo, thế nhưng họ cũng có một sự hiện diện mạnh mẽ của đức tin nữa. Tôi đã thấy và được tiếp đón ở Pháp cũng như ở Cộng Hòa Tiệp, một tiếp đón nồng hậu của cộng đồng Công giáo, được rất nhiều chú ý từ thành phần bất khả thần tri, thành phần đang tìm kiếm, thành phần muốn biết và tìm thấy những thứ giá trị trợ giúp cho sự tiến bộ của loài người và họ đã chú ý lắng nghe, hy vọng, có được một cái gì đó từ nơi tôi theo chiều hướng ấy. Về vấn đề chấp nhận và tôn trọng từ thành phần Công giáo, dĩ nhiên Đại Anh quốc đã có một lịch sử chống Công giáo. Đó là một điều hiển nhiên; thế nhưng đây cũng là xứ sở có một lịch sử khoan dung. Vì vậy tôi tin rằng chung chung sẽ có một một cuộc tiếp đón tích cực từ những người Công giáo và những ai có tín ngưỡng, sẽ được chú trọng từ những ai đang tìm kiếm đường lối để tiến bước trong thời đại của chúng ta đây, và sẽ được tôn trọng cùng chấp nhận ở nơi xẩy ra tình trạng bài Công giáo. Tôi đang cảm thấy phấn khởi và hân hoan.

 

Cha Lombardi: Hiệp Vương Quốc, như nhiều xứ sở Tây phương khác – đây là một đề tài đã được nói tới ở câu trả lời thứ nhất – được coi là một xứ sở tục hóa, với một phong trào vô thần mạnh mẽ được liên kết với những ảnh hưởng về văn hóa; tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cho thấy đức tin về tôn giáo, đặc biệt là vào Chúa Giêsu Kitô, vẫn còn sinh động ở lãnh vực riêng tư. Điều này có một ý nghĩa ra sao đối với những người Công giáo và Anh giáo? Người ta có thể làm một điều gì đó giúp cho Giáo Hội là một tổ chức cơ cấu khả tín hơn và hấp dẫn tất cả mọi người hơn hay chăng?  

 

Đức Thánh Cha: Người ta có thể nói rằng một giáo hội trên hết mọi sự tìm cách để làm sao trở thành những gì thu hút là đã đi sai đường lạc hướng mất rồi, vì Giáo Hội không hoạt động cho mình, không hoạt động để gia tăng các phần tử của mình hầu có được quyền thế hơn. Giáo Hội để phục vụ Người Khác; Giáo Hội không phục vụ chính mình, tìm cách để trở thành một cơ cấu hùng mạnh, nhưng nỗ lực để làm cho Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô trở thành khả đạt, thành những sự thật cao cả, những quyền lực mạnh mẽ của tình yêu thương và của sự hòa giải là những gì đã hiện lộ nơi hình ảnh này và bao giờ cũng xuất phát từ sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Theo chiều hướng ấy, Giáo Hội không tìm cách để trở thành những gì hấp dẫn, mà biến mình thành trong sáng cho Chúa Giêsu Kitô. Và theo mức độ Giáo Hội không sống cho mình, như một cơ cấu mạnh mẽ và uy quyền trên thế gian này, một cơ cấu muốn có quyền lực mà tự mình chỉ là tiếng nói của Kẻ Khác, Giáo Hội đang thực sự trở nên trong sáng cho hình ảnh cao cả của Chúa Giêsu Kitô cũng như cho các chân lý cao cả được Người mang đến cho nhân loại, cho quyền lực của tình yêu; có thế Giáo Hội mới được lắng nghe và được chấp nhận. Giáo Hội không được quan tâm đến bản thân mình mà hỗ trợ trong việc quan tâm đến Người Khác, và phải đích thân thấy và nói về Người Khác và cho Người Khác. Theo chiều hướng ấy thì tôi cũng dường như cảm thấy rằng tín hữu Anh giáo và Công giáo có một công việc đơn giản, cùng một công việc, cùng một hướng để theo. Nếu các tín hữu Anh giáo và Công giáo thấy rằng cả hai không sống cho mình mà là dụng cụ của Chúa Kitô, là ‘bạn hữu của Chàng Rể’, như Thánh Gioan Tiền Hô nói; nếu cả hai cùng nhau lấy Chúa Kitô là ưu tiên chứ không phải là chính mình, thì họ tiến đến gần nhau hơn, vì cái ưu tiên về Chúa Kitô đã kéo họ gần lại với nhau, họ không còn tranh giành, mỗi bên tìm cách có nhiều người hơn, mà là liên kết dấn thân cho chân lý của Chúa Kitô là Đấng đã đến thế gian này, nhờ đó họ thấy chính mình cũng được hỗ tương ở vào một vị thế đại kết chân thực và thành quả.

 

Cha Lombardi: Xin cám ơn Đức Thánh Cha. Câu hỏi thứ ba. Như đã được biết và các cuộc thăm dò mới đây đã cho thấy rằng những gương mù về vấn đề lạm dụng tình dục đã làm lung lạc niềm tin tưởng của tín hữu trong Giáo Hội. Đức Thánh Cha có ý định tác hành ra sao để có thể lấy lại niềm tin tưởng này?

 

Đức Thánh Cha: Trước hết, tôi cần phải nói rằng những tiết lộ này đã làm cho tôi cảm thấy rúng động. Chúng là một nỗi buồn lớn lao, và khó có thể hiểu được làm sao lại có thể xẩy ra tình trạng bại hoại này nơi thừa tác vụ linh mục như thế. Vị linh mục, ở vào giây phút thụ phong, một giây phút đã được sửa soạn qua bao năm tháng, đã thưa “vâng” với Chúa Kitô, để trở thành miệng lưỡi của Người, thành bàn tay của Người và để hết mình phục vụ nhờ đó Vị Mục Tử Nhân Lành là Đấng yêu thương chúng ta, Đấng giúp đỡ và hướng dẫn chúng ta tới chân lý, được hiện diện trên thế giới này. Làm sao lại có thể xẩy ra chuyện một con người đã nói và làm như thế sau đó lại có thể rơi vào những thứ bại hoại như thế thì thật là một vấn đề khó hiểu. Thật là một nỗi buồn cả thể, một nỗi buồn cả thể cả ở chỗ vai trò lãnh đạo của Giáo Hội đã không đủ tỉnh táo và đích đáng thuyên chuyển cũng như tỏ ra cương quyết thực hiện những biện pháp cần thiết. Vì tình trạng này mà chúng ta đang sống một thời điểm thống hối, khiêm hạ, tái chân thành, như tôi đã viết cho các vị Giám Mục Ái Nhĩ Lan. Tôi cảm thấy rằng giờ đây chúng ta cần phải dấn thân vào một thời gian thống hối, một thời gian khiêm hạ; chúng ta cần phải lập lại và học lại sự chân thành triệt để. Đối với thành phần nạn nhân tôi muốn nói rằng có 3 điều quan trọng: Việc chú ý đầu tiên của chúng ta cần phải là thành phần nạn nhân; làm thế nào để sửa lại những thiệt hại, làm thế nào để trợ giúp những con người này thắng vượt được tình trạng bị chấn thương của họ, tìm lại được sự sống, tìm lại được niềm tin tưởng vào sứ điệp của Chúa Kitô. Việc chăm sóc, việc dấn thân cho các nạn nhân ấy là ưu tiên hàng đầu, cùng với việc trợ giúp về vật chất, tâm lý và thiêng liêng. Thứ đến là vấn đề của những ai lầm lỗi. Hình phạt chính đáng cần phải thi hành đó là loại họ ra khỏi tất cả mọi liên hệ với giới trẻ. Chúng ta biết rằng đó là một cơn bệnh, ý muốn tự do không làm chủ được những nơi đang có cơn bệnh này, và chúng ta cần phải bảo vệ những con người ấy khỏi bản thân của họ, tìm cách trợ giúp họ và bảo vệ họ khỏi chính họ cùng loại họ khỏi liên hệ với giới trẻ. Thứ ba liên quan tới vấn đề ngăn ngừa bằng việc giáo dục và việc tuyển chọn các dự tuyển làm linh mục. Chúng ta cần phải coi chừng chú ý để loại trừ, theo khả năng loài người, những trường hợp xẩy ra sau này. Đền đây tôi muốn cám ơn các vị Giám Mục Anh quốc về sự chú trọng của các vị, việc hợp tác của các vị với Tòa Thánh Phêrô cũng như với các thẩm quyền dân sự, cũng như về việc các vị chú tâm tới thành phần nạn nhân và tôn trọng luật pháp. Tôi cảm thấy là các vị Giám Mục Anh quốc đã làm và đang làm được việc và tôi xin cám ơn các vị.    

 

Cha Lombardi: Tâu Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y Newman hiển nhiên là vị rất quan trọng đối với Đức Thánh Cha. Vì Đức Hồng Y Newman mà Đức Thánh Cha đã thực hiện một việc ngoại lệ khi chủ sự việc phong chân phước cho ngài. Đức Thánh Cha có nghĩ rằng việc gợi lại ngài có thể giúp thắng vượt những chia rẽ giữa các tín đồ Anh giáo và Công giáo hay chăng? Lại nữa Đức Thánh Cha có ý nhấn mạnh hơn đến những khía cạnh nào về con người của ngài?

 

Đức Thánh Cha: Một đàng, Đức Hồng Y Newman trước hết là một con người tân tiến, một người đã sống với tất cả vấn đề của những gì là tân tiến; ngài đã đương đầu với vấn đề của chủ nghĩa bất khả thần tri (agnosticism), vấn đề không thể biết được Thiên Chúa, vấn đề tin tưởng. Ngài là một con người suốt đời là một cuộc hành trình, một cuộc hành trình mà ngài đã chấp nhận để chân lý biến đổi trong một cuộc tìm kiếm được đánh dấu bằng một tấm lòng đầy chân thành và rất cởi mở, nhờ đó ngài nhận biết hơn nữa và tìm thấy cùng chấp nhận con đường dẫn đến sự sống chân thực. Cái tân tiến bên trong này, nơi con người của ngài cũng như nơi đời sống của ngài, cho thấy cái tân tiến nơi đức tin của ngài. Không phải là một thứ đức tin của những công thức thuộc các thế đại trong quá khứ; nó là một đức tin rất riêng tư, một đức tin được sống, chịu khổ và được tìm thấy trên một con đường dài của việc canh tân và hoán cải. Ngài là một con người của đại văn hóa, một con người lại chia sẻ với thứ văn hóa ngờ vực của chúng ta ngày nay, ở vấn nạn chúng ta có thể biết được hay chăng một cái gì đó chắc chắn liên quan tới sự thật về con người và hữu thể của họ, và làm sao chúng ta có thể tiến tới những khả thể đồng qui. Ngài là một con người có một nền văn hóa lớn lao và một kiến thức dồi dào về các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội. Ngài đã học hỏi và đổi mới cái gốc tích nội tại của niềm tin và đã nhận thấy hình thức cùng cấu trúc nội tại của nó. Ngài là một con người của thứ linh đạo cao cả, của nhân bản, của nguyện cầu, bằng mối liên hệ sâu xa với Thiên Chúa, một liên hệ riêng tư, và vì thế là một mối liên hệ sâu xa với dân chúng thuộc thời đại của ngài và của chúng ta. Vậy tôi muốn nêu lên 3 yếu tố này: yếu tố tân tiến nơi đời sống của ngài cùng với những ngờ vực và trục trặc như của chúng ta ngày nay; yếu tố thứ hai là thứ văn hóa cao cả của ngài, kiến thức của ngài về các kho tàng văn hóa loài người, tinh thần cởi mở cho việc thường xuyên tìm kiếm, thường xuyên canh tân đổi mới, và linh đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống với Thiên Chúa; những yếu tố này khiến cho con người này trở thành một tầm vóc ngoại lệ cho thời đại của chúng ta. Đó là lý do tại sao ngài như là một vị Tiến Sĩ của Giáo Hội đối với chúng ta và cho tất cả chúng ta, đồng thời cũng là một chiếc cầu nối giữa tín hữu Anh giáo và Công giáo.

 

Cha Lombardi: Một câu hỏi cuối cùng. Chuyến viếng thăm này được coi là một chuyến viếng thăm cấp Quốc Gia như nó hội đủ điều kiện như thế. Điều này có nghĩa là gì đối với những liên hệ giữa Tòa Thánh và Hiệp Vương Quốc? Phải chăng có ba lãnh vực qui tụ quan trọng, nhất là liên quan tới những thách đố lớn lao trên thế giới ngày nay?

 

Đức Thánh Cha: Tôi rất cám ơn Nữ Hoàng Elizabeth II, người đã quyết định cống hiến cho chuyến viếng thăm này vị trí chính thức của một cuộc viếng thăm ở cấp Quốc gia, một cấp viếng thăm thể hiện tính chất công khai của cuộc viếng thăm đồng thời cả trách nhiệm chung về chính trị và tôn giáo đối với tương lai của châu lục này và tương lai của nhân loại. Trách nhiệm cao và chung của chúng tôi đó là lưu ý tới các thứ giá trị kiến tạo công lý và chính trị, cũng như những giá trị xuất phát từ tôn giáo, cùng nhau tiến bước trong thời đại của chúng ta. Dĩ nhiên sự kiện đây là một chuyến viếng thăm ở cấp Quốc gia theo quan điểm về pháp lý không làm cho việc viếng thăm của tôi là một thực tại chính trị, vì nếu Giáo Hoàng là thủ lãnh của một Quốc Gia, thì đó chỉ là một phương tiện để bảo đảm cho tính chất độc lập của sứ điệp ngài muốn nói và tính chất công khai của việc làm của ngài theo vai trò Mục Tử. Theo đó thì cuộc viếng thăm ở cấp Quốc gia chính yếu và thiết yếu là một chuyến viếng thăm mục vụ, một chuyến viếng thăm được thực hiện theo trách nhiệm đối với đức tin là những gì cần đến vị Giáo Hoàng. Bình thường một cuộc viếng thăm cấp Quốc gia tập trung chú trọng vào mối liên hệ giữa những quan tâm về chính trị và tôn giáo. Thực ra chính trị hiện hữu là để bảo toàn công lý, và nhờ công lý bảo toàn tự do. Vậy công lý là một giá trị về luân lý, một thứ giá trị về tôn giáo, nên đức tin, việc loan báo Phúc Âm, có liên quan tới chính trị ở vấn đề “công lý”, và từ đó xuất phát những quan tâm chung. Đại Anh quốc có một kinh nghiệm lâu dài và hết sức chủ động trong trận chiến đấu chống các sự dữ của những thời đại của chúng ta, chống lại khổ đau, nghèo khổ, bệnh nạn, nghiện hút; và cũng những cuộc đối đầu chống khổ đau, nghèo khổ, nô lệ hóa con người, lạm dụng con người, nghiện hút cũng là những mục tiêu của đức tin, vì chúng là các mục tiêu của việc nhân bản hóa con người, bằng việc tìm cách phục hồi hình ảnh của Thiên Chúa cho con người, chống lại tình trạng bị hủy diệt và tàn phá. Công việc chung thứ hai đó là việc dấn thân cho hòa bình trên thế giới và khả năng sống trong hòa bình, vấn đề giáo dục sống hòa bình, kiến tạo các nhân đức giúp cho con người có thể sống trong hòa bình. Và sau hết, một yếu tố thiết yếu cho hòa bình đó là việc đối thoại liên tôn, khoan dung, cởi mở với nhau, và đó là mục đích sâu xa, cả ở Đại Anh quốc là một xã hội, cũng như ở đức tin Công giáo, trong việc cởi mở tâm can, hướng con người về việc đối thoại, nhờ đó hướng về chân lý cũng như về đường lối chung của nhân loại và tìm lại được các thứ giá trị làm nền tảng cho chủ nghĩa nhân bản của chúng ta.

 

Cha Lombardi: Xin cám ơn Đức Thánh Cha về những lời của ngài. Đức Thánh Cha đã mở ra trước chúng conc cả một bức tranh toàn cảnh về ý nghĩa của rất nhiều sứ điệp mà Đức Thánh Cha có ý muốn chuyển trao trong những ngày này, và chúng con hy vọng rằng Đức Thánh Cha sẽ thành công trong việc làm này qua các bài nói của Đức Thánh Cha. Vì chúng con là thành phần truyền thông, chúng con xin hứa cộng tác vào việc hiểu biết và truyền đạt các sứ điệp của Đức Thánh Cha. Chúng con cám ơn Đức Thánh Cha ngay từ đầu cống hiến cho chúng con thời giờ và nghị lực của Đức Thánh Cha, chúng con xin chúc những điều tốt đẹp nhất cho cuộc hành trình này. Chúng con xin cám ơn Đức Thánh Cha. 

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100916_interv-regno-unito_en.html

 

Giảng Lễ ở Bellahouston Park – Glasgow, Thứ Năm 16/9
 

 

… Tôi cảm thấy xúc động làm sao ấy khi ngỏ lời cùng anh chị em, không xa địa điểm này bao nhiêu, vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II yêu dấu của tôi đã cử hành Thánh Lễ gần 30 năm trước với anh chị em và được đón mừng bởi một đám đông đảo nhất trong lịch sử Tô Cách Lan.

 

Nhiều điều đã xẩy ra ở Tô Cách Lan cũng như trong Giáo Hội nơi xứ sở này từ chuyến viếng thăm lịch sử ấy. Tôi hết sức vui nhận thấy rằng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong việc sát cánh tiến bước với anh chị em Kitô hữu đồng đạo của mình đã dẫn tới chỗ tin tưởng và thân tình hơn với các phần tử của Giáo Hội Tô Cách Lan, Giáo Hội Episcopal Tô Cách Lan và các giáo hội khác. Tôi muốn phấn khích anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện và hoạt động với họ trong việc xây dựng một tương lai sáng sủa hơn cho Tô Cách Lan trên di sản Kitô giáo chung của chúng ta….

 

Việc truyền bá phúc âm hóa văn hóa là những gì lại càng trở nên quan trọng hơn trong thời điểm của chúng ta đây, khi mà ‘cái độc đoán của chủ nghĩa tương đối’ đang đe dọa gây lu mờ sự thật bất biến về bản tính của con người, về định mệnh của họ và về sự thiện tối hậu của họ. Có một số người hiện nay đang tìm cách loại trừ niềm tin tôn giáo ra khỏi cuộc truyện trò công cộng, tư riêng hóa nó hay thậm chí vẽ vời nó như là một thứ đe dọa cho quyền bình đẳng và tự do. Tuy nhiên, tôn giáo thực sự là một thứ bảo đảm cho quyền tự do chân thực và việc tôn trọng lẫn nhau, khiến chúng ta nhìn hết mọi người đều là anh chị em của chúng ta… Xã hội ngày nay cần đến những tiếng nói minh nhiên phát động quyền sống, không phải sống trong một thứ rừng rú của những thứ tự do tự diệt và tùy ý, mà là trong một xã hội hoạt động cho tình trạng phúc hạnh chân thực cho thành phần công dân của mình, cùng hướng dẫn và bảo vệ họ trước sự yếu đuối và mỏng dòn của họ….

 

Có nhiều chước cám dỗ được bày ra trước mắt anh chị em hằng ngày – như nghiện hút, tiền bạc, tình dục, khiêu dâm, rượu chè – những thứ thế gian bảo với anh chị em là sẽ làm cho anh chị em được hạnh phúc, nhưng lại là những thứ hủy hoại và ly gián. Chỉ có một điều duy nhất bền vững tồn tại đó là tình yêu của Chúa Giêsu Kitô giành cho riêng từng người trong anh chị em. Hãy tìm kiếm Người, nhận biết Người và yêu mến Người, Người sẽ giải phóng anh chị em khỏi trở thành nô lệ cho một cuộc sống long lanh óng ánh nhưng nông cạn hời hợt thường được xã hội ngày nay khêu gợi.

…………

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh (trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2010/documents/hf_ben-xvi_hom_20100916_glasgow_en.html

 

Huấn Dụ Thày Cô, Tu Sĩ và Học Sinh Công Giáo Thứ Sáu 17/9 ở Chapel and Sports Arena of St Mary’s University College Twickenham (London Borough of Richmond)

 

Huấn Dụ Các Thày Cô và Tu Sĩ Công Giáo

 

............

Như anh chị em biết, công việc của một thày giáo không phải chỉ ở chỗ truyền đạt tín liệu hay huấn luyện về các thứ năng khiếu để mang lại một lợi ích về kinh tế nào đó cho xã hội; giáo dục không phải và không bao giờ được coi là những gì thuần thực dụng. Giáo dục liên quan tới việc hình thành con người, trang bị cho họ trong việc sống viên trọn – tóm lại nó liên quan tới vấn đề thông đạt sự khôn ngoan. Mà khôn ngoan đích thực là những gì bất khả phân ly với kiến thức về Đấng Tạo Hóa, vì “cả chúng ta lẫn những lời lẽ của chúng ta đều ở trong tay Ngài, như mọi hiểu biết và năng khiếu trong tay những thủ công viên” (Wis 7:16).

 

Chiều kích siêu việt này của việc học hành và dạy dỗ đã được name bắt rõ ràng bởi những đan sĩ là thành phần đã đóng góp rất nhiều vào việc truyền bá phúc âm hóa của những hải đảo này. Tôi đang nghĩ đến các đan sĩ Biển Đức, những vị đã hộ tống Thánh Âu Quốc Tinh trong việc truyền giáo của thánh nhân cho Anh quốc, đến những người moan đệ của Thánh Columba, những vị đã loan truyền đức tin khắp Tô Cách Lan và miền Bắc Anh quốc, về Thánh Davít và đồng bạn của ngài ở Wales. Vì việc tìm kiếm Thiên Chúa, một công việc là tâm điểm của ơn gọi đan tu, đòi phải chủ động tìm cách làm cho chính Ngài được nhận biết – việc tạo dựng của Ngài và lời mạc khải của Ngài – thành ra đan viện cần phải có thư viện và học đường (cf. Address to representatives from the world of culture at the “Collège des Bernardins” in Paris, 12 September 2008). Chính việc dấn thân của các đan sĩ trong việc học hỏi như đường lối nhờ đó gặp gỡ Lời Nhập Thể của Thiên Chúa đã đặt nền tảng cho nền văn hóa và văn minh Tây phương của chúng ta.  

 

... Sự hiện diện của tu sĩ nơi các trường học Công giáo là một nhắc nhớ mãnh liệt về đặc tính Công giáo đã được bàn cãi nhiều, một đặc tính cần chi phối hết mọi khía cạnh của sinh hoạt học đường. Đặc tính này đã quá rõ ràng là nội dung của việc giảng dạy bao giờ cũng can phải hợp với tín lý của Giáo Hội. Nghĩa là đời sống đức tin cần phải trở thành một lực đẩy cho hết mọi hoạt động của trường học, nhờ đó mới hiệu nghiệm giúp cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, và giới trẻ mới khám phá thấy niềm vui được liên kết với ‘sống cho người khác’ của Chúa Kitô (Spe Salvi, 28).

 

……….

 

Huấn Dụ Các Học Sinh Công Giáo

 

Không phải vấn đề thường xẩy ra là một vị Giáo Hoàng, hay đúng hơn bất kỳ ai khác, có được cơ hội để nói với các học sinh của tất cả mọi trường học Công giáo ở Anh, Wales và Tô Cách Lan cùng một lúc. Và vì giờ nay tôi được dịp này, tôi có một điều rất muốn nói với các bạn. Tôi hy vọng là trong số các bạn đang nghe tôi hôm nay nay có một số trở thành những vị thánh của thế kỷ 21. Điều Thiên Chúa mong muốn nhất đối với mỗi một người trong các bạn đó là các bạn cần phải trở nên thánh hảo. Ngài yêu thương các bạn hơn là các bạn có thể bắt đầu tượng tưởng thấy, và Ngài muốn những gì tuyệt nhất cho các bạn. Và ở một mức độ bao rộng thì điều tuyệt nhất cho các bạn đó là nên thánh.

 

Có lẽ một số trong các bạn chứa từng nghĩ đến điều này bao giờ. Có thể một số trong các bạn nghĩ rằng vấn đề làm thánh không phải là vấn đề giành cho mình. Hãy để tôi giải thích cho các bạn tôi có ý muốn nói gì. Khi chúng ta trẻ trung, chúng ta thường nghĩ về con người chúng ta sùng mộ, con người chúng ta cảm phục, con người chúng ta muốn giống như thế. Họ có thể là một ai đó chúng ta gặp thấy trong cuộc sống hằng ngày của mình được chúng ta hết sức quí mến. Hay có thể là một người nổi tiếng nào đó. Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa nổi nang, và giới trẻ thường được thúc đẩy mô phỏng theo những nhân vật thuộc thế giới thể thao hay văn nghệ. Vấn đề tôi muốn đặt ra cho các bạn là thế này: Đâu là những tính chất các bạn thấy nơi người khác mà các bạn hết sức muốn cho chính bản thân mình? Đâu là loại người các bạn thật sự muốn trở nên? 

 

Khi tôi mời gọi các bạn trở thành những vị thánh là tôi yêu cầu các bạn đừng lấy làm mãn nguyện với cái tuyệt vời thứ yếu. Tôi đang xin các bạn đừng theo đuổi một mục tiêu hẹp hòi duy nhất mà bỏ qua tất cả những mục tiêu khác. Việc có tiền bạc khiến chúng ta có thể trở thành quảng đại và làm lành trên thế giới này, thế nhưng, tự mình, nó không đủ để làm cho chúng ta được hạnh phúc. Việc tài khéo ở một số hoạt động hay nghề nghiệp thì tốt, nhưng nó sẽ không làm cho các bạn thỏa mãn, trừ phi chúng ta nhắm đến một cái gì đó còn cao cả hơn thế nữa. Nó có thể làm cho chúng ta trở thành nổi tiếng, thế nhưng nó sẽ không làm cho chúng ta được hạnh phúc. Hạnh phúc là điều tất cả chúng ta đều mong muốn, thế nhưng một trong những thảm trạng cả thể trên thế giới này đó là rất nhiều người lại không tìm được nó, vì họ tìm kiếm nó ở nơi không đúng chỗ. Cái then chốt cho thứ hạnh phúc này rất đơn giản thôi – hạnh phúc thật chỉ được tìm thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta cần phải có lòng can đảm để đặt những niềm hy vọng sâu xa nhất của mình nơi một mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không phải ở tiền bạc, ở nghề nghiệp, ở thành công trần thế, hay ở những mối liên hệ với kẻ khác, nhưng trong Thiên Chúa. Chỉ duy mình Ngài mới có thể thỏa mãn những nhu cầu sâu xa nhất của cõi lòng chúng ta thôi.

 

Thiên Chúa chẳng những yêu thương chúng ta sâu xa và mạnh mẽ đến độ chúng ta khó có thể bắt đầu thấu hiểu, thế nhưng Ngài còn mời gọi chúng ta hãy đáp ứng tình yêu ấy nữa. Tất cả các bạn đều biết như thế nào khi các bạn gặp một người thu hút và hấp dẫn, và các bạn muốn làm bạn với người đó. Các bạn luôn hy vọng họ sẽ thấy các bạn thu hút và hấp dẫn, và muốn chơi với các bạn. Thiên Chúa muốn tình bằng hữu của các bạn. Và một khi các bạn làm bạn với Thiên Chúa thì hết mọi sự trong đời sống của các bạn bắt đầu đổi thay. Khi các bạn hiểu biết Ngài hơn, các bạn thấy các bạn muốn phản ảnh một cái gì đó từ sự thiện hảo vô cùng của Ngài nơi đời sống của các bạn. Các bạn cảm thấy ham thực hành nhân đức. Các bạn bắt đầu thấy rằng tham lam và vị kỷ cùng với tất cả mọi thứ tội lỗi khác xuất phát từ chúng, đều là các khuynh hướng hủy diệt và nguy hiểm gây đau khổ sâu đậm và hư hại nặng nề, và các bạn muốn bản thân tránh bị rơi vào cái cạm bẫy đó. Các bạn bắt đầu cảm thấy xót thương cho những người gặp khốn khó và các bạn hăng hái làm một cái gì đó để giúp đỡ họ. Các bạn muốn ra tay trợ giúp cho thành phần nghèo khổ và thành phần đói khổ, các bạn muốn an ủi kẻ sầu thương, các bạn muốn trở thành một con người nhân hậu và quảng đại. Và một khi những điều ấy bắt đầu có liên hệ tới các bạn là các bạn đang ngon lành trên con đường nên thánh rồi vậy.

 

Ở các học đường Công giáo, bao giờ cũng có một hình ảnh to lớn hơn ở trên và bên trên những chủ thể riêng tư các bạn học hỏi, những năng khiếu các bạn học được. Tất cả mọi việc làm được các bạn thực hiện đều liên hệ với việc gia tăng mối thân tình với Thiên Chúa, và tất cả đều xuất phát từ mối thân tình ấy. Bởi thế các bạn học biết chẳng những là những sinh viên học sinh tốt, mà còn là những người công dân tốt, con người tốt. Khi các bạn học cao hơn, các bạn phải chọn các môn học, các bạn bắt đầu chuyên biệt hóa bằng một cái nhìn về những gì các bạn sẽ làm sau này trong cuộc sống. Việc ấy là việc làm đúng và thích đáng. Thế nhưng, các bạn hãy luôn nhớ rằng hết mọi môn học chỉ là một phần của bức tranh to lớn hơn. Đừng bao giờ để mình trở thành nhỏ hẹp. Thế giới cần đến các khoa học gia tốt, thế nhưng một quan điểm có tính cách khoa học trở thành nhỏ hẹp một cách nguy hiểm nếu nó loại trừ chiều kích tôn giáo hay đạo lý của cuộc sống, cũng thế tôn giáo trở thành hẹp hòi nếu nó loại trừ việc góp phần hợp lệ của khoa học cho kiến thức của chúng ta về thế giới. Chúng ta cần đến các sử gia, các triết gia, các kinh tế gia tốt, thế nhưng nếu những gì họ cống hiến về đời sống con người thuộc lãnh vực đặc biệt của họ quá hẹp hòi thì họ có thể dẫn chúng ta đi tới chỗ sai lạc trầm trọng.

 

Một trường học tốt là một học đường cung cấp một nền giáo dục bao gồm toàn thể con người. Và một trường học Công giáo tốt, còn hơn thế nữa, cần phải giúp cho tất cả mọi học sinh sinh viên của mình trở thành những vị thánh. Tôi biết rằng có nhiều sinh viên học sinh không Công giáo học trong các trường Công giáo ở Đại Anh quốc, và tôi muốn bao gồm tất cả các bạn nơi những lời tôi nói hôm nay nữa. Tôi nguyện cầu để cả các bạn nữa sẽ cảm thấy phấn khởi thực hành nhân đức và gia tăng kiến thức cùng tình thân với Thiên Chúa song song với các bạn bhọc Công giáo của mình. Các bạn là lời nhắc nhở cho họ về bức tranh to lớn hơn đang hiện hữu ở ngoài học đường, thật vậy, đúng là việc tôn trọng và tình thân hữu đối với các phần tử thuộc các truyền thống tôn giáo khác cần phải thuộc về số các nhân đức được học hỏi ở một trường học Công giáo. Cả tôi cũng hy vọng rằng các bạn sẽ muốn đem ra chia sẻ với hết mọi người các bạn gặp những thứ giá trị và minh thức các bạn học được nhờ nền giáo dục Kitô giáo.

 

Các bạn thân mến, xin cám ơn các bạn đã lưu ý lắng nghe, tôi hứa nguyện cầu cho các bạn, và tôi xin các bạn cầu nguyện cho tôi. Tôi hy vọng gặp nhiều các bạn vào Tháng Tám năm tới, tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Maní. Trong khi chờ đợi tôi chúc lành cho tất cả các bạn!

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100917_mondo-educ_en.html

 

Bài Giảng Lễ Thứ Bảy 18/9 ở Cathedral of the Most Precious Blood of Our Lord Jesus Christ City of Westminster

 

(Video)

………….

Chúng ta hãy bắt đầu với hy tế Thánh Giá. Việc tuôn đổ máu Chúa Kitô là nguồn mạch cho sự sống của Giáo Hội. Như chúng ta biết, Thánh Gioan thấy nơi máu và nước chảy ra từ thân thể của Chúa Kitô ấy suối nguồn của sự sống thần linh được Thánh Linh ban tặng và thông truyền cho chúng ta nơi các phép bí tích (Jn 19:34; cf. 1 Jn 1:7; 5:6-7). Chúng ta có thể nói Bức Thư gửi Do Thái rút tỉa những hàm ý về phụng vụ của mầu nhiệm này. Chúa Giêsu, bằng việc khổ đau và tử nạn của mình, việc tự hiến mình trong Thần Linh hằng hữu, đã trở thành vị thượng tế của chúng ta và “vị trung gian của tân ước” (Heb 9:15). Những lời này vang vọng chính những lời của Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly, khi Người thiết lập Thánh Thể như bí tích của thân mình Người được hiến ban cho chúng ta, và máu Người, máu của tân ước vĩnh cửu đổ ra để thứ tha tội lỗi (cf. Mk 14:24; Mt 26:28; Lk 22:20).

 

Trung thành với lệnh truyền của Chúa “hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19), qua mọi thời và ở mọi nơi, Giáo Hội cử hành Thánh Thể cho tới khi Chúa trở lại trong vinh quang, hoan hỉ nơi việc hiện diện bí tích của Người và nhận được quyền năng từ hy tế cứu độ của Người cho phần rỗi của thế giới. Thực tại của hy tế Thánh Thể bao giờ cũng là tâm điểm của đức tin Công giáo; một thực tại đã bị đặt lại vấn đề vào thế kỷ 16, nhưng đã được long trọng tái khẳng định ở Công Đồng Triđentinô trước cái phông cảnh về việc chúng ta được công chính hóa trong Đức Kitô. Như chúng ta biết, ở Anh quốc đây, có nhiều người đã cương quyết bênh vực Thánh Lễ, thường bằng một giá cao, để phát động việc tôn sùng Thánh Thể là những gì vốn là một dấu hiệu của Công giáo ở những mảnh đất này. Hy tế Thánh Thể của Mình Máu Chúa Kitô ngược lại bao gồm mầu nhiệm của việc Chúa chúng ta tiếp tục chịu khổ nạn nơi các phần tử của Nhiệm Thể của Người là Giáo Hội ở mọi thời đại. Ở nơi đây cây thánh giá lớn vươn cao bên trên chúng ta nhắc cho chúng ta nhớ rằng Chúa Kitô, vị thượng tế vĩnh cửu, hằng ngày liên kết với những hy sinh của chúng ta, những nỗi khổ đau của chúng ta, những nhu cầu của chúng ta, những niềm hy vọng và những khát vọng của chúng ta, với công nghiệp vô cùng của hy tế Người. Nhờ Người, với Người và trong Người, chúng ta dâng thân xác của chúng ta như một hy tế thánh hảo và đáng chấp nhận lên Thiên Chúa (cf Rm 12:1). Theo ý nghĩa đó, chúng ta được liên kết với hy sinh đời đời của Người, như Thánh Phaolô nói, trong việc hoàn tất nơi xác thịt của chúng ta những gì còn thiếu nơi các đớn đau của Chúa Kitô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội (cf Col 1:24). Trong đời sống của Giáo Hội, nơi các thử thách và hoạn nạn của Giáo Hội, theo câu nói khắc nghiệt của Pascal, Chúa Kitô tiếp tục chịu thống khổ cho đến tận thế (Pensées, 553, éd. Brunschvicg).

 

Chúng ta thấy khía cạnh này của mầu nhiệm máu châu báu của Chúa Kitô được tiêu biểu một cách hùng hồn nhất nơi các vị tử đạo ở mọi thời đại, những vị đã uống từ chính chén Chúa Kitô đã uống, và những vị đã đổ máu ra hợp với hy tế của Người, hiến sự sống mới cho Giáo Hội. Nó cũng phản ảnh nơi những người anh chị em chúng ta trên khắp thế giới, thành phần thậm chí giờ đây đang bị kỳ thị và bách hại vì niêà tin Kitô giáo của mình. Tuy nhiên, nó cũng hiện diện nơi cả, thường kín đáo, nơi khổ đau của tất cả những Kitô hữu hằng ngày liên kết các hy sinh của mình với những hy sinh của Chúa Kitô cho việc thán h hóa Giáo Hội và phần rỗi của thế giới. Tôi đang đặc biệt nghĩ đến tất cả những ai đang thiêng liêng hiệp với việc cử hành Thánh Thể này, và đặc biệt là thành phần bệnh nhân, già lão, khuyết tật và những ai chịu khổ về tâm thần và thiêng liêng.

 

Đến đây tôi cũng nghĩ đến nỗi khổ đau bao la gây ra bởi việc lạm dụng trẻ em, nhất là trong Giáo Hội và bởi thành phần thừa tác viên của mình. Tôi đặc biệt bày tỏ nỗi buồn khổ sâu xa của tôi với các nạn nhân vô tội của những thứ tội ác không thể tượng tưởng này, cùng với niềm hy vọng rằng quyền năng của ân sủng Chúa Kitô, hy tế hòa giải của Người, sẽ mang lại việc chữa lành sâu xa và an bình cho đời sống của họ. Cùng với anh chị em, tôi cũng nhìn nhận nỗi hổ thẹn và ô nhục tất cả chúng ta chịu đựng vì những tội lỗi này; và tôi mời gọi anh chị em hãy dâng nó cho Chúa với lòng tin tưởng rằng việc trừng phạt này sẽ góp phần vào vấn đề chữa lành cho các nạn nhân, thanh tẩy Giáo Hội và canh tân việc dấn thân lâu đời của Giáo Hội đối với ngành giáo dục và chăm sóc cho giới trẻ. Tôi xin cám ơn những nỗ lực đã được thực hiện để giải quyết vấn đề này một cách hữu trách, và tôi xin tất cả anh chị em hãy tỏ ra quan tâm đến thành phần nạn nhân và tỏ tình đoàn kết với các vị linh mục của anh chị em.

 

… Lời kêu gọi của Công Đồng gửi thành phần tín hữu giáo dân trong việc thực hiện việc tham phần theo phép rửa của mình vào sứ vụ của Chúa Kitô đã âm vang những minh thức và giáo huấn của Đức Hồng Y John Henry Newman. Chớ gì những tư tưởng sâu xa của con người Anh quốc cao cả này tiếp tục tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô nơi mảnh đất này trong việc tuân hợp hết mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình với Chúa Kitô, và hăng say hoạt động để bênh vực những sự thật luân lý bất biến, những chân lý được Phúc Âm khẳng định, soi sáng và củng cố, trở thành nền tảng cho một xã hội thật sự nhân bản, công bằng và tự do. Xã hội đương thời cần biết bao tới chứng từ ấy! Chúng ta cần biết bao, trong Giáo Hội cũng như nơi xã hội, những chứng từ của vẻ đẹp thánh đức, những chứng từ của chân lý rạng ngời, những chứng từ của niềm vui và tự do xuất phát từ mối liên hệ sống động với Chúa Kitô! Một trong những thách đố lớn lao nhất chúng ta đang phải đối đầu hiện nay đó là làm thế nào có thể nói một cách thuyết phục về sự khôn ngoan và quyền năng giải phóng của lời Thiên Chúa cho một thế giới mà tất cả rất thường coi Phúc Âm như là những gì xiết chặt tự do của con người, hơn là sự thật là những gì giải thoát trí khôn của chúng ta và soi sáng cho các nỗ lực của chúng ta để sống một cách khôn ngoan và tốt đẹp, với tư cách vừa là cá nhân vừa là phần tử của xã hội.

…………….

 

Với riêng giới trẻ

 

Cám ơn việc tiếp đón nồng hậu của các bạn! ‘Lòng nói với lòng” – cor ad cor loquitur – như các bạn biết, tôi đã chọn những lời rất thân thương với Đức Hồng Y Newman như chủ đề cho chuyến viếng thăm của tôi. Trong ít phút chúng ta qui tụ lại đây, tôi muốn nói với các bạn từ tấm lòng của tôi, và tôi xin các bạn hãy mở lòng mình ra cho những gì tôi nói.

 

Tôi xin mỗi một người trong các bạn, trước hết và trên hết, hãy nhìn vào cõi lòng của mình. Hãy nghĩ về tất cả tình yêu mà con tim của các bạn được làm nên để lãnh nhận, và tất cả tình yêu cần phải hiến ban. Thật ra tất cả chúng ta đều được dựng nên để yêu thương. Đó là những gì Thánh Kinh hàm ý khi nói rằng chúng ta được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa, ở chỗ chúng ta được dựng nên để nhận biết Vị Thiên Chúa của tình yêu, Vị Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, và tìm thấy tầm vóc viên trọn cao cả của chúng ta nơi tình yêu thần linh vô cùng bất tận này.

 

Chúng ta được dựng nên để nhận lãnh tình yêu, và chúng ta lãnh nhận tình yêu. Hết mọi ngày sống chúng ta hãy cám ơn Thiên Chúa về tình yêu chúng ta biết đến, vì tình yêu này đã làm chúng ta là, tình yêu đã tỏ cho chúng ta thấy những gì thật sự quan trọng trong đời sống. Chúng ta cần tạ ơn Chúa vì tình yêu chúng ta lãnh nhận từ gia đình của chúng ta, bạn bè chúng ta, thày cô của chúng ta, và tất cả những ai trong cuộc đời của chúng ta đã giúp chúng ta nhận ra chúng ta quí báu biết bao, trước mắt của họ cũng như trước mắt của Thiên Chúa.

 

Chúng ta cũng được dựng nên để cống hiến tình yêu, để làm cho tình yêu thành hứng thú cho tất cả những gì chúng ta làm và là điều bền bỉ nhất trong đời sống của chúng ta. Có những lúc điều này dường như rất tự nhiên, nhất là khi chúng ta cảm thấy cái hồ hởi của tình yêu, khi trái tim của chúng ta tràn đầy lòng quảng đại, lý tưởng, ước muốn giúp đáp kẻ khác, xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Thế nhưng, ở vào những lúc khác, chúng ta nhận thấy rằng yêu thương là điều khó; lòng chúng ta có thể dễ trở thành cứng cỏi bởi vị kỷ, tham muốn và kiêu hãnh….

 

Đó là sứ điệp tôi muốn chia sẻ cùng các bạn hôm nay. Tôi xin các bạn hãy nhìn vào lòng mình mỗi ngày để thấy được nguồn mạch của tất cả tình yêu chân thực. Chúa Giêsu bao giờ cũng ở đó, âm thầm chờ đợi chúng ta để ở với Người và lắng nghe lời Người. Sâu xa trong cõi lòng của các bạn, Người đang kêu gọi các bạn hãy bỏ giờ ra với Người trong cầu nguyện. Thế nhưng, loại cầu nguyện này, cầu nguyện thực sự, đòi phải kỷ cươcng; nó đòi giành giờ thinh lặng mỗi ngày. Nó thường có ý đợi chờ Chúa nói.  Thậm chí ở ngay giữa ‘bận bịu’ và căng thẳng nơi đời sống hằng ngày của chúng ta, chúng ta cũng cần giành chỗ cho thinh lặng, vì chính trong thinh lặng mà chúng ta tìm thấy Thiên Chúa, và trong thinh lặng chúng ta khám phá thấy chính bản thân đích thực của mình. Và trong việc khám phá ra bản thân đích thực của mình, chúng ta khám phá ra ơn gọi đặc biệt Thiên Chúa giành cho chúng ta trong việc xây đắp Giáo Hội của Người và phần rỗi của thế giới chúng ta.

-------------------

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2010/documents/hf_ben-xvi_hom_20100918_westminster_en.html

 

 

Ngỏ lời cùng Đức Tổng Giám Mục Canterbury Thứ Sáu 17/9 ở Lambeth Palace (London Borough of Richmond)

 

(Video)

……….

Hôm nay tôi không có ý định nói về những sự khó khăn mà đường lối đại kết gặp phải và tiếp tục gặp phải. Những khó khăn ấy đã quá rõ với mọi người hiện diện nơi đây. Trái lại, tôi muốn hợp cùng ngài để dâng lời tạ ơn về mối thân tình sâu xa đã từng gia tăng giữa chúng ta cũng như về sự tiến bộ đáng kể đạt được trong rất nhiều lãnh vực đối thoại qua 40 năm từ khi bắt đầu hoạt động của Ủy Ban Quốc Tế Anh Giáo và Công Giáo Rôma. Chúng ta hãy ký thác các hoa trái của công việc này cho Vị Chúa của mùa màng, tin tưởng rằng Ngài sẽ chúc lành cho tình thân hữu của chúng ta bằng việc gia tăng nó hơn nữa.

 

Bối cảnh cho cuộc đối thoại diễn tiến giữa Hiệp Thông Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo đã biến đổi một cách sâu xa từ cuộc gặp gỡ riêng giữa Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Tổng Giám Mục Geoffrey Fisher vào năm 1960….

 

… Thiên Chúa “muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tim 2:4), và sự thật chính là Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Con hằng hữu của Thiên Chúa, Đấng đã hòa giải mọi sự nơi bản thhân mình bằng quyền lực của Thập Giá mình. Trung thành với ý muốn của Chúa Kitô, như được bày tỏ trong đoạn Thư Thứ Nhất Thánh Phaolô gửi cho Timothêu trên đây, chúng ta công nhận rằng Giáo Hội được kêu gọi để bao gồm tất cả, nhưng không bao giờ ở chỗ hy sinh chân lý Kitô giáo. Vấn đề nan giải là ở chỗ đó đối với tất cả những ai thực sự dấn thân cho cuộc hành trình đại kết.

 

Nơi hình ảnh của Đức Hồng Y John Henry Newman, vị sẽ được phong chân phước vào Chúa Nhật, chúng ta mừng một vị giáo sĩ có nhãn quan về giáo hội được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm Anh giáo của mình và được chín mùi qua nhiều năm làm thừa tác viên thụ phong trong Giáo Hội của Anh quốc. Ngài có thể dạy chúng ta những nhân đức cần cho phong trào đại kết: một đàng ngài được tác động theo lương tâm của mình, cho dù có phải trả giá to lớn cho bản thân mình; đàng khác, thái độ ngài vẫn tỏ ra ân cần thân tình với các người bạn xưa kia của mình đã dẫn ngài đến chỗ cùng họ xem xét, với một tinh thần Ái Nhĩ Lan, những vấn đề khác biệt, bằng một lòng sâu xa mong ước hiệp nhất trong đức tin. Thưa Đức Tổng Giám Mục, trong cùng mối thân tình ấy, chúng ta hãy lập lại quyết tâm của chúng ta trong việc theo đuổi mục đích hiệp nhất trong đức tin, đức cậy và đức mến, theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng ta.

 

…………..

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100917_arciv-canterbury_en.html 

 

 

 

Diễn từ trong buổi kinh tối đại kết Thứ Sáu 17/9 ở Đan Viện Westminster thuộc thành phố Westminster

 

 (Video)

 

Tôi xin cảm tạ Chúa cho tôi cơ hội gặp gỡ các bạn, thành phần đại diện của các niềm tin Kitô giáo ở Đại Anh quốc, trong Ngôi Nhà Thờ Đan Viện uy nghi được cung hiến cho Thánh Phêrô này đây, ngôi thánh đường có kiến trúc và lịch sử nói lên một cách hùng hồn về di sản đức tin chung của chúng ta. Ở nơi đây chúng ta không thể nào không nhớ tới đức tin Kitô giáo đã hình thành một cách lớn lao biết bao mối hiệp nhất và văn hóa của Âu Châu cũng như tâm can và tinh thần của nhân dân Anh quốc. Cũng ở nơi đây, chúng ta không thể nào quên được những gì chúng ta chia sẻ trong Chúa Kitô còn lớn lao hơn cả những gì tiếp tục chia rẽ chúng ta.

………….

 

Năm nay, như chúng ta biết, đánh dấu 100 năm kỷ niệm phong trào đại kết tân tiến, một phong trào bắt đầu với lời kêu gọi hioệp nhất Kitô giáo của Hội Nghị Edinburgh như là điều kiện tiên quyết cho một thứ chứng từ khả tín và thuyết phục cho Phúc Âm trong thời đại của chúng ta. Để tưởng nhớ biến cố kỷ niệm này, chúng ta cần phải tạ ơn về mức tiến bộ khả quan được thực hiện hướng đến mục tiêu cao quí này nhờ các nỗ lực của thành phần Kitô hữu dấn thân thuộc mọi giáo phái. Tuy nhiên, đồng thời chúng ta vẫn ý thức về biết bao nhiêu điều vẫn chưa được thực hiện. Trong một thế giới được đánh dấu bằng sự gia tăng việc liên thuộc và tình liên đới, chúng ta được thách đố loan truyền bằng một niềm xác tín mới thực tại về việc chúng ta hòa giải và giải phóng trong Chúa Kitô, và đề cao sự thật của Phúc Âm như là then chốt cho việc phát triển đích thực và toàn vẹn của con người. Trong một xã hội càng ngày càng trở nên lãnh đạm dửng dưng hay thậm chí hận thù với sứ điệp Kitô giáo, tất cả chúng ta lại càng được thúc bách cống hiến một chứng từ hân hoan và hùng hồn về niềm hy vọng ở trong chúng ta (cf 1Pet 3:15), và cho thấy Chúa Kitô Phục Sinh như là một giải đáp cho những vấn nạn sâu xa nhất và những khát vọng thiêng liêng của con người nam nữ thuộc thời đại của chúng ta.

………….

 

Việc chúng ta dấn thân cho mối hiệp nhất Kitô giáo được xuất phát từ chính niềm tin tưởng của chúng ta vào Chúa Kitô, vào Chúa Kitô này, Đấng đã phục sinh từ trong kẻ chết và đang ngự bên hữu Cha, Đấng lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Chính thực tại về con người của Chúa Kitô, về công cuộc cứu độ của Người, nhất là về sự kiện lịch sử của việc Người phục sinh, một việc phục sinh là nội dung của lời giảng tông đồ tiên khởi cùng với những công thức tin tưởng, bắt đầu từ chính Tân Ước, đã là những gì bảo đảm tính chất nguyên tuyền của việc truyền đạt nó. Tóm lại, mối hiệp nhất của Giáo Hội chỉ là mối hiệp nhất về đức tin tông truyền, nơi đức tin được ký thác cho từng phần tử mới của Thân Mình Chúa Kitô trong kễ nghi rửa tội. Chính đức tin này là những gì liên kết chúng ta với Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên thành phần thông dự vào Thánh Thần, nhờ đó, thậm chí cho tới nay, trở nên thành phần thông dự vào sự sống của Ba Ngôi Thánh, mẫu thức của mối hiệp thông Giáo Hội dưới thế này.

 

Các bạn thân mến, tất cả chúng ta đều biết đến các thách đố, phúc lành, thất vọng cùng những dấu hiệu của niềm hy vọng đã ghi dấu cuộc hành trình đại kết của chúng ta. Tối hôm nay chúng ta ký thác tất cả những sự ấy cho Chúa, tin tưởng vào việc quan phòng của Ngài và quyền năng ân sủng của Ngài. Chúng ta biết rằng những mối thân tình chúng đã đã hình thành, cuộc đối thoại chúng ta đã bắt đầu và niềm hy vọng hướng dẫn chúng ta sẽ hiến cho chúng ta sức mạnh và hướng đi khi chúng ta kiên trì tiến bước trong cuộc hành trình chung của chúng ta. Với tính cách hiện thực của phúc âm, chúng ta đồng thời cũng phải công nhận những thách đố chúng ta đang phải đương đầu, chẳng những trên con đường hiệp nhất Kitô giáo, mà còn nơi công việc loan báo Chúa Kitô trong thời đại của chún g ta nữa. Việc trung thành với lời Chúa, chính vì đó là lời chân thực, đòi chúng ta một đức tuân phục dẫn chúng ta tới chỗ hiểu biết sâu xa hơn ý muốn của Chúa, một đức tuân phục cần phải thoát khỏi tính chất tuân thủ về tri thức hay tính chất thuận lợi dễ dàng theo tinh thần của thời đại. Đó là lời khích lệ tôi muốn lưu lại cùng các bạn tối hôm nay, và tôi làm như thế theo thừa tác vụ là vị Giám Mục Rôma và là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, mang trách nhiệm đặc biệt chăm sóc cho mối hiệp nhất của đàn chiên Chúa Kitô.

 

…………. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100917_celebrazione-ecumenica_en.html

 

Diễn Từ Thứ Bảy 18/9 ở Hyde Park – London Tối Vọng Phong Chân Phước Cho Đức Hồng Y John Henry Newman

 

… Như anh chị em biết, Đức Hồng Y Newman đã lâu có một tầm ảnh hưởng quan trọng trong đời sống và tư tưởng của tôi, như ngài đã ảnh hưởng đến rất nhiều người ở bên ngoài những hải đảo này. Thảm kịch của đời sống Đức Hồng Y Newman mời gọi chúng ta hãy xem xét lại đời sống của chúng ta, nhìn nó nơi chân trời bao rộng của dự án Thiên Chúa, và gia tăng mối hiệp thông với Giáo Hội ở hết mọi thời và hết mọi nơi: một Giáo Hội của các vị tông đồ, một Giáo Hội của các vị tử đạo, một Giáo Hội của các thánh, một Giáo Hội Đức Hồng Y Newman mến yêu và hiến cả đời mình cho sứ vụ của Giáo Hội.

 

…. Tối hôm nay, trong bối cảnh của việc cúng ta cầu nguyện chung, tôi muốn chia sẻ với anh chị em về một ít khía cạnh trong đời sống của Đức Hồng Y Newman được tôi cho rằng rất liên quan tới đời sống của chúng ta là thành phần tín hữu cũng như đến đời sống của Giáo Hội ngày nay.

 

Tôi muốn bắt đầu bằng việc nhắc lại rằng Đức Hồng Y Newman, căn cứ vào trình thuật của chính ngài, đã truy nguyên tất cả giòng đời của mình từ một cảm nghiệm hoán cải mãnh liệt ngài có được khi còn trẻ. Nó là một cảm nghiệm trực tiếp về sự thật của lời Chúa, về thực tại khách quan của mạc khải Kitô giáo được truyền lại trong Giáo Hội. Cảm nghiệm này, vừa tôn giáo vừa tri thức, đã tác động ơn gọi của ngài trong việc trở thành một thừa tác viên của Phúc Âm, đã soi động nhận thức của ngài về nguồn giáo huấn thẩm quyền của Giáo Hội Chúa, và khích động lòng nhiệt thành của ngài đối với việc canh tân đời sống Giáo Hội nơi việc trung thành với truyền thống tông đồ. Vào cuối đời của mình, Đức Hồng Y Newman đã diễn tả hoạt động của đời ngài như là một cuộc đối chọi với khuynh hướng đang gia tăng cho tôn giáo như là một vấn đề thuần riêng tư và chủ quan, một vấn đề của ý nghĩ cá nhân. Đó là bài học đầu tiên chúng ta có thể học được từ đời sống của ngài: trong thời đại của chúng ta đây, khi đang có một chủ nghĩa tương đối về tri thức và luân  lý đang đe dọa làm cạn kiệt nhựa sống chính những nguồn mạch của xã hội chúng ta, Đức Hồng Y Newman nhắc nhở chúng ta rằng, là những con người nam nữ được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên để biết được chân lý, để tìm thấy nơi sự thật đó cái tự do tối hậu của chúng ta cùng với tất cả những gì làm hoàn trọn các khát vọng sâu xa nhất của con người chúng ta. Tóm lại, chúng ta được dựng nên để nhận biết Chúa Kitô, Đấng chính là “đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6).

 

Đời sống của Đức Hồng Y Newman cũng dạy chúng ta rằng việc say mê tìm kiếm chân lý, lòng chân thành về tri thức và việc hoán cải chân thực là những gì đắt giá. Sự thật giải phóng chúng ta không thể nào bị cầm giữ cho riêng chúng ta; sự thật cần đến chứng từ, nó tha thiết muốn được lắng nghe, để rồi quyền năng thắng đoạt của sự thật xuất phát từ chính mình chứ không phải từ tài hùng biện hay các lập luận của con người bày tỏ nó… Trong thời đại của chúng ta đây, cái giá cần phải trả cho lòng trung thành với Phúc Âm không còn là những gì đang lơ lửng, hăm dọa và bủa vây, nhưng thường là tình trạng bị sa thải, nhạo cười hay chế giễu. Tuy nhiên, Giáo Hội không thể lùi bước mà không thực hiện việc loan truyền Chúa Kitô và Phúc Âm của Người như là một sự thật cứu độ, nguồn mạch cho hạnh phúc tối hậu của cá nhân chúng ta, và như là nền tảng cho một xã hội công chính và nhân bản.

 

Sau hết, Đức Hồng Y Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đã chấp nhận sự thật của Chúa Kitô và hiến cuộc đời của chúng ta cho Người thì không có vấn đề tách biệt giữa cái chúng ta tin tưởng và cách thức chúng ta sống cuộc đời của mình. Tất cả những gì chúng ta nghĩ tưởng, nói năng và tác hành cần phải hương đến vinh quang của Thiên Chúa và việc loan truyền Vương Quốc của Ngài. Đức Hồng Y Newman đã hiểu được điều ấy, và đã trở thành một nhà tranh đấu mạnh mẽ cho vai trò ngôn sứ của thành phần giáo dân Kitô giáo. Ngài đã thấy rõ ràng rằng chúng ta không chấp nhận sự thật bằng một tác động thuần tri thức cho bằng ôm ấp sự thật bằng một năng lực thiêng liêng là những gì thấu tới tận thâm cung của hữu thể chúng ta. Sự thật được truyền đạt không chỉ bằng giáo huấn chính thức, quả thực là quan trọng, nhưng cũng bằng cả chứng từ của cuộc đời được sống một cách nguyên tuyền, trung thành và thánh đức nữa; những ai sống trong sự thật và bởi sự thật thì theo bản năng của mình nhận thấy ngay những gì là sai trái, và vì sai trái, chúng trở thành độc hại cho sự mỹ và sự thiện là những gì giúp tỏa chiếu ánh quang rạng ngời của chân lý, veritatis splendor.

 

… Nhờ đức tin chúng ta mới thấy được rằng lời Chúa như đèn soi bước chúng ta đi và là ánh sáng soi đường chúng ta bước (cf Ps 119:105). Đức Hồng Y Newman, như vô vàn các vị thánh trước ngài trên con đường làm Kitô hữu môn đệ, đã dạy rằng ‘ánh sáng tốt lành’ của đức tin dẫn chúng ta tới chỗ nhận biết sự thật về bản thân mình, về phẩm vị của chúng ta là con cái của Thiên Chúa, và số phận cao vời đang đợi chờ chúng ta ở trên trời. Bằng việc để cho ánh sáng đức tin này chiếu tỏa trong tâm hồn của mình, cũng như bằng việc gắn bó với ánh sáng ấy qua việc chúng ta hằng ngày kết hợp với Chúa trong nguyện cầu và tham dự vào các bí tích ban sự sống của Giáo Hội, chính chúng ta trở thành ánh sáng cho những người chung quanh chúng ta; chúng ta thực thi ‘vai trò ngôn sứ’ của mình; nhờ đó thường lôi kéo, cho dù không biết, người ta tiến đến gần Chúa và sự thật của Người hơn nữa. Không sống đời sống cầu nguyện, không được ân sủng của các bí tích biến đổi nội tâm, theo Đức Hồng Y Newman nói, chúng ta không thể ‘chiếu tỏa Chúa Kitô’; chúng ta chỉ là những thứ ‘phèng la’ (1Cor 13:1) trong một thế giới đầy những náo động và hỗn độn, đầy những đường lối sai lạc chỉ gây tan nát tâm can và mơ tưởng hão huyền.

 

Một trong những suy niệm được yêu chuộng nhất của vị Hồng Y này có những lời sau đây: “Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi để làm một việc nhất định cho Ngài. Ngài đã ủy thác cho tôi một việc làm mà Ngài không trao phó cho người khác” (Meditations on Christian Doctrine). Đến đây chúng ta thấy chủ trương hiện thực Kitô giáo tốt lành của Đức Hồng Y Newman, một điểm gặp gỡ bất khả tránh của đức tin và đời sống. Đức tin là để sinh hoa kết trái nơi việc biến đổi thế giới của chúng ta bằng quyền năng của Thánh Linh tác động nơi đời sống và hoạt động của các tín hữu. Không ai thực tiễn nhìn vào thế giới của chúng ta hôm nay lại có thể nghĩ rằng Kitô hữu có thể tiếp tục với việc làm như thường, mà lại không để ý gì tới cuộc khủng hoảng sâu xa về đức tin đang chi phối xã hội của chúng ta, hay chỉ tin tưởng rằng gia sản của các thứ giá trị được truyền qua bao thế kỷ Kitô giáo sẽ tiếp tục tác động và hình thành tương lai của xã hội chúng ta. Chúng ta biết rằng ở vào những lúc khủng hoảng và biến động Thiên Chúa đã từng gửi đến những vị đại thánh và tiên tri để canh tân Giáo Hội và xã hội Kitô giáo; chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và chúng ta xin Ngài tiếp tục hướng dẫn…

………..

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100918_veglia-card-newman_en.html

 

 

 

Giảng Lễ Phong Chân Phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman ở Cofton Park of Rednal – Birmingham, Chúa Nhật 19/9/2010

 

………….

Khẩu hiệu Cor ad cor loquitur hay “lòng nói với lòng” của Đức Hồng Y Newman cống hiến cho chúng ta một minh thức về kiến thức của ngài đối với đời sống Kitô giáo như là một ơn gọi nên thánh, một ơn gọi được cảm thấy như là một ước muốn sâu xa của con tim con người muốn thân tình hiệp thông với Con Tim Thiên Chúa. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng sống trung thành với việc cầu nguyện dần dần biến đổi chúng ta nên giống như Thiên Chúa. Như ngài đã viết ở một trong những bài giảng hay của mình, “một thói quen cầu nguyện, việc thực hành hướng về Thiên Chúa và thế giới vô hình ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp khẩn cấp – tôi muốn nói rằng cầu nguyện có những gì được gọi là một thứ hiệu quả tự nhiên trong việc thiêng liêng hóa và thăng hóa linh hồn. Một con người không còn là cái họ đã là trước đó; dần dần… họ hấp thụ một loạt những ý nghĩ mới mẻ, và được thấm đẫm các nguyên tắc mới mẻ” (Parochial and Plain Sermons, iv, 230-231).

 

Phúc Âm hôm nay nói với chúng ta rằng không ai có thể làm tôi hai chủ (cf. Lk 16:13), và giáo thuyết của Chân Phước John Henry về cầu nguyện cho thấy rằng làm thế nào người Kitô hữu trung tín hoàn toàn được tiến đến chỗ phục vụ chỉ một vị Chủ Nhân duy nhất, Đấng mà chỉ duy mình Người mới có quyền đòi việc dấn thân vô điều kiện của chúng ta (cf Mt 23:10). Chân Phước Newman giúp chúng ta hiểu điều này có nghĩa là gì đối với cuộc sống hằng ngày của chúng ta: ngài nói với chúng ta rằng Vị Chủ Nhân thần linh của chúng ta đã ủy thác cho từng người chúng ta một việc làm đặc biệt, một ‘việc làm nhất định’, được chuyên biệt trao phó cho từng người. Ngài viết: “Tôi có sứ vụ của mình. Tôi là một móc nối trong một sợi xích, một liên hệ móc nối giữa những con người. Ngài đã không dựng nên tôi vô tích sự. Tôi sẽ hành thiện, tôi sẽ làm việc của Ngài; tôi sẽ là thiên thần hòa bình, là một giảng viên chân lý ở vị thế của mình… nếu tôi tuân giữ các giới huấn của Ngài và phục vụ Ngài theo ơn gọi của tôi” (Meditations and Devotions, 301-2).

 

Việc phục vụ nhất định Chân Phước John Henry Newman đã được kêu gọi liên quan tới việc áp dụng trí óc sắc bén của ngài và ngòi bút phong phú của ngài vào nhiều “đề tài của thời đại” rất khẩn thiết. Những minh thức của ngài nơi mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, nơi vị thế quan trọng của tôn giáo được mạc khải ở xã hội văn minh, và nơi nhu cầu cần đến một đường lối bao rộng  đối với việc giáo dục không những hết sức quan trọng đối với Victorian England, mà ngày nay còn tiếp tục tác động và soi sáng nhiều người trên khắp thế giới nữa. Tôi muốn đặc biệt trân trọng trước nhãn quan của ngài về việc giáo dục là những gì đã có công rất nhiều trong việc hình thành cái đặc tính làm tác lực cho những học đường và đại học Công giáo ngày nay. Mạnh mẽ chống lại với bất cứ đường lối suy giảm hay thực dụng nào, ngài đã tìm cách để đạt được một môi trường về giáo dục bao gồm cả vấn đề huấn luyện về tri thức, kỷ luật về luân lý và dấn thân về đạo giáo. Dự án thành lập một Đại Học Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan cống hiến cho ngài cơ hội để khai triển tư tưởng của ngài về chủ đề này, và tuyển tập các bài nói nhan đề Ý Nghĩ Về Đại Học được ngài xuất bản đề cao một lý tưởng mà tất cả những ai dấn thân vào việc huấn luyện về hàn lâm có thể tiếp tục học hỏi. Thật vậy, những thày cô dạy về đạo nghĩa làm sao có thể nêu lên cho mình được một mục đích nào tốt lành đẹp hơn là lời kêu gọi nổi tiếng của Chân Phước John Henry giành cho một người giáo dân thông minh và được học hỏi đàng hoàng: “Tôi muốn một người giáo dân, chứ không phải là kẻ ngạo mạn, không bừa bãi trong lời nói, không tranh luận, mà là những con người biết đạo giáo của mình, đi sâu vào nó, biết mình đang ở đâu, biết những gì mình chủ trương và không chủ trương, biết những gì mình tin tưởng vững vàng tới độ có thể chứng tỏ chúng, biết rất rõ về lịch sử để có thể bênh vực nó” (The Present Position of Catholics in England, ix, 390)….

 

Trong khi di sản về tri thức của Chân Phước John Henry Newman được chú trọng một cách dễ hiểu nơi văn chương bao rộng giành cho đời sống và việc làm của ngài, tôi muốn nhân cơ hội này kết thúc bằng một chia sẻ vắn gọn về đời sống của ngài như là một vị linh mục, một vị mục tử của các linh hồn. Tính chất ân cần và nhân bản nằm bên dưới cái nhận thức của ngài thừa tác mục vụ là những gì được diễn tả một cách tuyệt vời ở một bài giảng khác trong các bài giảng nổi tiếng của ngài: Anh chị em thân mến, nếu các Thiên Thần là các vị linh mục của anh chị em, các vị không thể nào chia buồn với anh chị em, thông cảm với anh chị em, thương hại anh chị em, cảm thấy dịu dành đối với anh chị em, và cho phép anh chị em, như chúng tôi có thể; các ngài không thể là mẫu mực và hướng đạo viên của anh chị em, và dẫn anh chị em tiến bước từ con người cũ của anh chị em đến sự sống mới, như các vị có thể như những ai xuất thân giữa anh chị em” (“Men, not Angels: the Priests of the Gospel”, Discourses to Mixed Congregations, 3). Ngài đã sống trọn cái nhãn quan sâu xa nhân bản ấy về thừa tác vụ linh mục qua việc ngài dấn thân chăm sóc cho dân chúng ở Birmingham trong những năm ngài sống ở Nguyện Đường do ngài thành lập, bằng cách viếng thăm bệnh nhân và người nghèo, an ủi thành phần tang tóc, chăm sóc cho những ai ở trong ngục tù. Không lạ gì khi qua đời rất nhiều ngàn người đã xếp hàng dài ở các đường phố địa phương không đầy nửa dặm đường từ đây khi thần thể của ngài được đưa đến nơi an táng. Một trăm hai mươi năm sau, các đám thật đông lại tụ tập một lần nữa để hoan hỉ trước việc long trọng công nhận của Giáo Hội về thánh đức trổi vượt của người cha được nhiều mến yêu của các linh hồn này. Còn cách nào tốt đẹp hơn để bày tỏ niềm vui ấy trong lúc này hơn là hướng lên Cha trên trời bằng tấm lòng tạ ơn chân thành, nguyện cầu bằng những lời được Chân Phước John Henry Newman đặt vào môi miệng của các thần trời:

 

Chúc tụng Đấng Chí Thánh trên cao

Và chúc tụng nơi cả vực thẳm;

Tuyệt vời nhất nơi tất cả mọi lời lẽ của Ngài,

Vững vàng nhất nơi tất cả mọi đường lối của Ngài!

(The Dream of Gerontius).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2010/documents/hf_ben-xvi_hom_20100919_beatif-newman_en.html

 

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXV 19/9/2010 ở Cofton Park of Rednal – Birmingham, về Tân Chân Phước John Henry Newman

 …  Khi Chân Phước John Henry Newman đến sống ở Birmingham, ngài đã lấy tên “Maryvale” cho ngôi nhà đầu tiên của ngài ở đây. Nguyện Đường do ngài thiết lập được cung hiến cho Đức Trinh Nữ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội. Và Đại Học Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan đã được ngài đặt dưới sự chở che bảo hộ của Mẹ Maria, Sedes Sapientiae. Qua nhiều thể nhiều cách, ngài đã sống thừa tác vụ linh mục của mình với tinh thần mến mộ của người con thảo đối với Mẹ Thiên Chúa. Khi suy niệm về vai trò của Mẹ trong việc bày tỏ dự án của Thiên Chúa cho phần rỗi của chúng ta ngài đã cảm kích kêu lên rằng: “Ai có thể thẩm định được sự thánh thiện và trọn lành của Mẹ, vị đã được chọn làm Mẹ của Chúa Kitô? Đâu là những tặng ân của Mẹ, vị đã được chọn để trở thành người liên hệ trần gian gần gữi duy nhất của Con Thiên Chúa, con người duy nhất mà Người theo tự nhiên phải tôn kính và kính phục; con người được chỉ định để huấn luyện và giáo dục Người, ngày ngày hướng dẫn Người, để Người lớn lên về khôn ngoan và tầm vóc?” (Parochial and Plain Sermons, ii, 131-2)…

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/angelus/2010/documents/hf_ben-xvi_ang_20100919_regno-unito_en.html

 

Lời từ biệt của Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc ngỏ cùng Đức Thánh Cha Chúa Nhật 19/9/2010 ở Phi Trường Quốc Tế Birmingham: “Khi ngài nghĩ về xứ sở của chúng tôi, xin hãy nghĩ về nó như là một xứ sở chẳng những ấp ủ đức tin, mà còn là một xứ sở biết cảm thương sâu xa dù âm thầm”. 

 

Ngài Giáo Hoàng Biển Đức, Các Đấng Bậc, Chư Nữ Nam Vị,

 

Lễ nghi này kết thúc một biến động 4 ngày không ngờ cho xứ sở của chúng ta.

 

Trọng kính Ngài Giáo Hoàng, trong cuộc Viếng Thăm ở tầm vóc Quốc Gia thực sự lịch sử đầu tiên của ngài ở Đại Anh quốc, ngài đã nói với một quốc gia có 6 triệu người Công giáo nhưng ngài đã được lắng nghe bởi một quốc gia trên 60 triệu công dân cũng như bởi nhiều triệu người nữa trên khắp thế giới.

 

Vì ngài đã cống hiến một sứ điệp chẳng những cho Giáo Hội Công giáo mà còn cho mỗi và mọi người trong chúng tôi thuộc hết mọi niềm tin và chẳng có niềm tin gì.

 

Một thách đố cho tất cả chúng ta đó là theo lương tâm của mình để hỏi không phải là những gì chúng ta có quyền mà là những gì chúng ta có trách nhiệm? Để hỏi không phải là những gì cho chính bản thân chúng ta mà là những gì chúng ta có thể làm cho những người khác?

 

Đức Hồng Y Newman, vị đã được phong chân phước ở Birmingham sáng hôm nay, có lần đã nói rằng một việc nhỏ bé được thực hiện bởi một người nào đó giúp “xoa dịu bệnh nhân hay túng thiếu” hay bởi một người nào đó tỏ ra “tha thứ cho kẻ thù địch” cho thấy đức tin thực sự hơn là được tỏ ra bởi “cuộc đàm đạo về đạo giáo lưu loát nhất” hay bởi “kiến thức sâu xa nhất về Thánh Kinh”.

 

Trong việc đóng góp lớn lao của mình cho triết lý của nền giáo dục cao học, Đức Hồng Y Newman đã nhắc nhở thế giới về nhu cầu giáo dục để sống chứ không chỉ cho công ăn việc làm.

 

Vấn đề giáo dục bao rộng để sống đã quan trọng hóa, căn cứ vào những trách nhiệm của mỗi một người trong xã hội, những đòi buộc và những cơ hội xuất phát từ cái được Đức Hồng Y Newman diễn tả như là “mối liên kết chung của sự hiệp nhất” mà tất cả chúng ta tham phần.

 

Trọng kính Ngài Giáo Hoàng, mối liên kết chung này đã trở thành một phần quan trọng đáng chú ý tronmg sứ điệp ngài gửi cho chúng tôi.

 

Và nó nằm ở trọng tâm của nền văn hóa mới về trách nhiệm xã hội mà chúng tôi muốn thiết dựng ở Đại Anh quốc.

 

Thành phần của niềm tin – bao gồm 30 ngàn tổ chức bác ái có căn gốc đức tin – là những kiến trúc gia cao cả của nền văn hóa mới đó. Đối với nhiều người, đức tin là một tác lực hoạt động. Nó hình thành các niềm tin tưởng của họ cũng như hành vi cử chỉ của họ; và nó cống hiến cho chúng một cảm quan về mục đích. Thật sự chính đức tin của họ đã tác động họ giúp đỡ những người khác. Chúng ta cần phải ca ngợi điều ấy.

 

Đức tin là những gì thuộc về cơ cấu của xứ sở chúng tôi. Nó bao giờ cũng thế và sẽ mãi là thế.

 

Và Ngài Giáo Hoàng, ngài đã nói rằng đức tin không phải là một vấn đề để các nhà lập pháp giải quyết mà là một yếu tố quan trọng trong câu chuyện đất nước của chúng tôi.

 

Chúng tôi hãnh diện về điều này.

 

Thế nhưng dân chúng không cần phải chia sẻ một niềm tin về đạo giáo hay đồng ý với tôn giáo về hết mọi sự để thấy được thiện ích của vấn đề đặt ra những vấn nạn đang tìm kiếm được ngài, thưa Ngài Giáo Hoàng, đặt ra cho chúng tôi về xã hội của chúng tôi và cách thức chúng tôi đối xứ với chính mình và với nhau.

 

Ngài đã thật sự thách đố toàn xứ sở này trong việc ngồi xuống suy nghĩ, và đó có thể là một điều tốt lành duy nhất.

 

Vì tôi tin rằng tất cả chúng tôi đều tham phần vào sứ điệp của ngài trong việc hoạt động cho công ích và tất cả chúng tôi đều có trách nhiệm về xã hội với nhau, với gia đình của chúng tôi và với cộng đồng của chúng tôi. Dĩ nhiên, những trách nhiệm của chúng tôi với nhau – và việc chúng tôi chăm sóc cho nhau – cũng cần phải vượt ra ngoài bờ cõi này nữa.

 

Ngài Giáo Hoàng, trong cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm qua cũng như trong những cuộc bàn luận với phái đoàn đại biểu của Giáo Hoàng tối Thứ Sáu, chúng tôi đã đồng ý phát triển việc hợp tác giữa xứ sở này và Tòa Thánh về những vấn đề quốc tế chính yếu là những gì chúng ta đều có cùng một mục đích. Về việc thuyết phục để giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu. Về việc cổ võ một cuộc đối thoại đa tín và về hoạt động cho hòa bình trên thế giới của chúng ta. Về việc chiến dấu chống nghèo khổ và bệnh hoạn.

 

Tôi mạnh mẽ tin rằng chúng ta cần phải tiếp tục giúp đỡ thành phần nghèo khổ nhất, thậm chí ở trong những thời buổi kinh tế khó khăn. Khoảng cách mở rộng giữa thành phần giầu có và thành phần nghèo khổ sẽ trở thành nguy hiểm hơn và ít an toàn hơn cho tất cả chúng ta.

 

Thế nên xứ sở này sẽ giữ lời hứa của mình về vấn đề viện trợ. Chúng tôi sẽ thực hiện để bảo đảm là các xứ sở khác cũng phải giữ lời hứa của họ nữa. Cũng như để bảo đảm rằng tiền bạc chúng tôi chi cho vấn đề viện trợ đến tay những ai cần đến nó nhất. Tôi cảm thấy vui mừng khi thấy Tòa Thánh sẽ làm việc rất chủ động với chúng tôi để thực hiện tất cả những gì chúng tôi có thể hầu đạt được điều này.

 

Trọng kính Ngài Giáo Hoàng, việc hiện diện của ngài nơi đây đã là một vinh dự cho xứ sở của chúng tôi. Giờ đây ngài rời bỏ chúng tôi – và tôi hy vọng rằng với những sâu xa nhung nhớ.

 

Khi ngài nghĩ về xứ sở của chúng tôi, xin hãy nghĩ về nó như là một xứ sở chẳng những ấp ủ đức tin, mà còn là một xứ sở biết cảm thương sâu xa dù âm thầm.

 

Tôi thấy được nó nơi việc đáp ứng lạ thường đối với những trận lụt lội ở Pakistan. Tôi thấy được nó nơi tinh thần cộng đồng đang tác động vô vàn việc thiện đối với bạn bè và cận nhân hằng ngày. Và trong đời sống của mình, tôi đã từng thấy nó nơi nhiều thật là nhiều những sứ điệp từ ái tôi có được khi tôi nâng niu đứa con gái mới và nói lời từ biệt với một người bố tuyệt vời.

 

Khi chúng tôi đang đứng ở Birmingham đây để từ biệt ngài, xin cho tôi được trở lại với những lời của Đức Hồng Y Newman. Vị hồng ý này được nhớ đến rất nhiều ở Birmingham đây vì việc Đức Hồng Y chăm sóc cho dân chúng thuộc thành phố này. Trong một trận dịch tả xẩy ra trong thành phố, vị hồng y này đã không ngừng hoạt động giữa người nghèo khổ và người bệnh nạn. Và khi chính ngài qua đời, thành phần nghèo khổ trong thành phố kéo ra đường xếp hàng cả hằng ngàn ngàn người. Câu khẩu hiệu “Lòng nói với lòng” của vị hồng y đã được in trên khăn choàng quan tài. Câu khẩu hiệu này là đề tài cho chuyến viếng thăm đặc biệt đây.

 

Tôi hy vọng nó là phản ảnh của cuộc nghênh đón ngài đã có được. Nó thật sự là một thứ cung kính xứng đáng với những lời ngài đã nói và cảm tình được ngài lưu lại cho chúng tôi.

 

Tôi chúc ngài và phái đoàn đại biểu của ngài bằng an trở về Rôma.

 

Và tôi mong thấy được việc hợp tác khít khao hơn bao giờ hết giữa Hiệp Vương Quốc và Tòa Thánh khi chúng tôi gia tăng quyết tâm của mình để hoạt động cho công ích, cả ở Đại Anh quốc đây lẫn với các đồng hữu của chúng tôi ở hải ngoại.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/9/2010

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

 

 

Lời Đức Thánh Cha tạ từ ngỏ cùng Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc ở Phi Trường Quốc Tế Birmingham Chúa Nhật 19/9/2010

………..

 

Trong thời gian tôi được ở với ngài, tôi đã có thể gặp gỡ các vị đại diện thuộc nhiều cộng đồng, thuộc các văn hóa và các tôn giáo làm nên xã hội Đại Anh quốc. Chính cái tính chất đa dạng của một Đại Anh quốc tân tiến này là một thách đố cho Chính Phủ và nhân dân của nó, thế nhưng nó cũng tiêu biểu cho một cơ hội lớn lao cho việc đối thoại liên văn hóa và liên tôn để làm phong phú toàn thể cộng đồng này.

 

Trong những ngày này, tôi hân hạnh được dịp gặp Nữ Hoàng cũng như chính ngài và các vị lãnh đạo chính trị khác, để có thể bàn đến các vấn đề của lợi ích chung, cả ở quốc nội cũng như hải ngoại. Tôi đặc biệt hân hạnh được mời đến ngỏ lời cùng cả Lưỡng Viện của Quốc Hội ở khu vực lịch sử là Sảnh Đường Westminster. Tôi thành thực hy vọng rằng những cơ hội này sẽ góp phần vào việc làm củng cố và kiên cường những mối liên hệ tuyệt hảo giữa Tòa Thánh và Hiệp Vương Quốc, nhất là trong việc hợp tác về tình trạng phát triển quốc tế, trong việc chăm sóc môi trường thiên nhiên, cũng như trong việc xây dựng một xã hội dân sự với một cảm quan mới về các giá trị chung và mục đích chung.

 

Tôi cũng hân hạnh viếng thăm Đờzc Tổng Giám Mục Canterbury và các vị Giám Mục thuộc Giáo HộI Anh quốc, và sau đó cầu nguyện với họ và các Kitô hữu đồng bạn ở môi trường gợi nhớ là Đan Viện Westminster, một nơi đã hùng hồn nói lên những truyền thống và văn hóa chung của chúng ta. Vì Đại Anh quốc là nhà cho rất nhiều truyền thống tôn giáo, tôi hân hạnh được dịp gặp gỡ các vị đại diện các tôn giáo này để chia sẻ một số tư tưởng với họ về việc đóng góp được các tôn giáo có thể cống hiến cho vấn đề phát triển của một xã hội đa nguyên lành mạnh.

 

Dĩ nhiên chuyến viếng thăm của tôi đặc biệt nhắm đến tín hữu Công giáo ở Hiệp Chủng Quốc. Tôi trân quí thời gian được ở với các vị giám mục, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, và với các thày cô, học sinh và người lớn. Thật là cảm động khi cùng họ cử hành ở Birmingham đây việc tôn phong chân phước cho một người con cao cả của Anh quốc là Đức Hồng Y John Henry Newman. Với một di sản văn chương lớn lao về hàn lâm và đạo đức của ngài, tôi tin tưởng rằng ngài vẫn dạy chúng ta nhiều về đời sống Kitô giáo và việc làm chứng ở giữa những thách đố của thế giới ngày nay, những thách đố được ngài thấy trước một cách đặc biệt rõ ràng.

 

………..

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100919_farewell_en.html

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 22/9/2010: Tổng kết chuyến Tông Du Hiệp Vương Quốc: “4 ngày này, những ngày đã bắt đầu một giai đoạn mới và quan trọng trong mối liên hệ lâu đời giữa Tòa Thánh và Đại Anh quốc”

 

Anh Chị Em thân mến trong Đức Kitô,

 

Như anh chị em biết, tôi vừa trở về từ chuyến tông du đầu tiên của tôi ở Hiệp Vương Quốc, và tôi muốn gửi lời chào thân ái của tôi tới tất cả những ai tôi đã gặp gỡ và những ai đã góp phần vào chuyến viếng thăm này qua truyền thông trong 4 ngày này, những ngày đã bắt đầu một giai đoạn mới và quan trọng trong mối liên hệ lâu đời giữa Tòa Thánh và Đại Anh quốc.

 

Thứ Năm vừa rồi, tôi được hân hạnh nồng hậu nghênh đón bởi Nữ Hoàng ở thủ đô lịch sử Edinburgh nước Tô Cách Lan. Sau đó cùng ngày, tôi đã cử hành Thánh Lễ ở Glasgow với sự hiện diện của nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và đông đảo tín hữu trước một phong cảnh chiều buông tuyệt đẹp ở Công Viên Bellahouston, trong khu vực của nơi vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi cử hành Thánh Lễ với dân chúng Tô Cách Lan 28 năm trước.

 

Đến Luân Đôn, tôi đã gặp hằng ngàn ngàn sinh viên và học sinh Công giáo ở một cuộc cử hành rất vui, nhắc nhở tất cả chúng ta về hoạt động tuyệt hảo và thiết yếu được các học đường Công giáo cùng các thầy cô thực hiện trên khắp mảnh đất này. Sau đó tôi hân hoan được gặp thành phần đại diện cho hàng giáo sĩ và giáo dân thuộc các tôn giáo khác nhau để bàn về việc tìm kiếm những gì là linh thánh chung cho tất cả mọi người.

 

Sau đó tôi hân hạnh gặp gỡ Đức Tổng Giám Mục Canterbury là vì đã đến Rôma gặp tôi một số lần. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi ở Dinh Lambeth, trước sự hiện diện của các Giám Mục thuộc Giáo Hội Anh quốc, là một cuộc gặp gỡ rất thân tình và huynh đệ. Rồi tôi băng qua sông sang Westminster là nơi tôi được một cơ hội vô tiền khoáng hậu để ngỏ lời với Lưỡng Viện Quốc Hội ở Sảnh Đường Westminster về tầm quan trọng của một cuộc đối thoại hiệu lực giữa tôn giáo và lý trí, một đề tài thích hợp vào thời của Thánh Thomas More cũng như trong thời đại của chúng ta đây. Sau hết, trong cùng ngày, tôi được đặc ân quì cầu nguyện với Đức Tổng Giám Mục Canterbury ở Mộ Thánh Edward ở Đan Viện Westminster, và cùng tạ ơn Thiên Chúa với vị Tổng Giám Mục này, vị Điều Hành Giáo Hội Tô Cách Lan và các vị lãnh đạo Kitô hữu Đại Anh quốc khác, về nhiều phúc lành Thiên Chúa đã ban cho các nỗ lực của chúng ta trong việc tái kết mối liên hệ của tình thân hữu Kitô giáo giữa chúng ta.

 

Sáng hôm sau, tôi vui mừng gặp gỡ Thủ Tướng David Cameron, Phó Thủ Tướng Nick Clegg và Bà Harriet Harman, vị lãnh đạo Khối Đối Lập, trước khi cử hành Thánh Lễ ở Vương Cung Thánh Đường Westminster, với một phụng vụ cảm kích bởi truyền thống âm nhạc đệ nhất Anh quốc giành cho việc cử hành lễ nghi Rôma. Chiều hôm đó, tôi được nghênh đón rất thân tình bởi các Nữ Tu Nhỏ Bé của Người Nghèo và thành phần lão thành được họ chăm sóc. Ở đó tôi cũng được dịp tạ ơn và khuyến khích những ai có trách nhiệm bảo toàn trẻ em ở Đại Anh quốc. Tối hôm đó tôi đã tham dự một buổi tối canh thức đầy không khí nguyện cầu và trầm mặc ở Công Viên Hyde với cả 10 ngàn tín hữu.

 

Sáng Chúa Nhật, tôi di chuyển tới Birmingham là nơi tôi hân hoan cử hành Lễ Phong Chân Phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman. Sau đó cùng ngày, tiếp theo cuộc gặp gỡ ân cần và huynh đệ với tất cả các vị Giám Mục Đại Anh quốc, tôi đã được chào biệt bởi Thủ Tướng Cameron bằng một bài diễn từ rất thân ái ở Phi Trường Quốc Tế Birmingham về ước muốn của Chính Phủ trong việc kiến tạo việc hợp tác về vấn đề phát triển với Giáo Hội Công giáo và những thành phần khác.

 

Bởi thế, Ngày Chúa Nhật là một thời điểm của niềm mãn nguyện riêng tư, khi Giáo Hội mừng kính phúc đức của một đại nhân Anh quốc, vị có đời sống và các văn tự làm tôi cảm mến nhiều năm và là vị được cảm nhận bởi vô vàn con người ở bên ngoài bờ cõi của quê hương của ngài. Việc tìm kiếm một cách khôn ngoan của Chân Phước John Henry Newman trong việc nhận biết và bày tỏ chân lý trong bác ái yêu thương, bất chấp giá phải trả cho niềm an ủi cá nhân của ngài, cho bị thế của ngài và thậm chí cho tình bằng hữu của ngài, là một chứng từ tuyệt vời cho thấy ước vọng tinh tuyền muốn nhận biết và kính mến Thiên Chúa trong mối hiệp thông của Giáo Hội. Tấm gương của ngài thực sự là một tấm gương có thể tác động tất cả chúng ta.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(trên đây là những trích đoạn nguyên văn tiêu biểu trong bài nói của Đức Thánh Cha, và những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2010/documents/hf_ben-xvi_aud_20100922_en.html

 

 

Đức Hồng Y John Henry Newman. Tại sao ngài được phong chân phước?

Sau hết, tôi cần phải nhắc lại một lần nữa việc phong chân phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman. Tại sao ngài được phong chân phước? Những gì ngài cần phải nói với chúng ta? Những câu hỏi này có nhiều câu giải đáp, những câu hỏi được đặt ra trong bối cảnh của cuộc phong chân phước này. Tôi muốn nhấn mạnh đến chỉ hai khía cạnh mà thôi, hai khía cạnh thuộc về nhau và là những khía cạnh nói cho cùng đều diễn tả cùng một điều. Khía cạnh thứ nhất đó là chúng ta cần phải học từ ba cuộc hoán cải của Chân Phước Newman, vì chúng là những bước tiến dọc theo một con đường thiêng liêng liên quan tới tất cả chúng ta. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến một cuộc hoán cải đầu tiên mà thôi: hoán cải về với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Cho tới bấy giờ, chàng Newman suy nghĩ như là những con người bình thường thuộc thời điểm của mình và thật sự như thành phần bình thường ngày nay, những con người không chỉ loại trừ sự hiện hữu của Thiên Chúa, mà còn coi nó như là một cái gì đó mù mờ kông chắc chắn, một cái gì đó không đóng vai trò thiết yếu trong đời sống của họ. Những gì có vẻ thực hữu đích đáng đối với họ, như với những con người thuộc thời của ngài và thời của chúng ta đây, là những gì thuộc về kinh nghiệm, là những chất thể có thể nắm bắt được. Đó là thứ "thực tại" người ta nhờ đó cảm thấy mình có được. "Cái thực hữu" đó là những gì có thể được nắm bắt, nó là những gì có thể đếm được và cầm nắm trong tay. Nơi việc hoán cải của mình, chàng Newman nhận thấy rằng không phải như thế mà là cách thức khác: ở chỗ Thiên Chúa và linh hồn, căn tính thiêng liêng của con người, tạo nên những gì là thực hữu đích đáng, những gì đáng kể. Những điều ấy còn thực hữu hơn cả những đồ vật có thể cầm nắm. Cuộc hoán cải này là một thứ cách mạng theo kiểu Copernican. Những gì trước kia xem ra bất thực hữu và phụ thuộc giờ đây lại cho thấy là yếu tố quyết liệt đích thực. Bao giờ xẩy ra một cuộc hoán cải như thế, không phải là vấn đề thay đổi lý thuyết của con người mà là sự hình thành nền tảng của đời sống đổi thay. Tất cả chúng ta đều liên lỉ cần đến việc hoán cải ấy để rồi nhờ đó chúng ta tiến bước theo đường ngay nẻo chính.

Tác lực thúc đẩy chàng Newman tiến bước theo con đường hoán cải đó là lương tâm. Thế nhưng điều này nghĩa là gì? Theo ý nghĩ tân tiến thì tiếng "lương tâm", đối với những vấn đề về luân lý và tôn giáo, có một chiều kích chủ quan, chiều kích cá nhân, chiều kích tạo nên thẩm quyền tối hậu trong việc quyết định. Thế giới được phân chia thành các lãnh vực khách quan và chủ quan. Những gì thuộc về lãnh vực khách quan đều có thể đếm được và chứng thực bằng kinh nghiệm. Tôn giáo và luân lý không thuộc về mục tiêu của những phương pháp này và vì thế được coi như thuộc về lãnh vực chủ quan. Ở đây vấn đề phán quyết cuối cùng đó là không có những qui chuẩn khách quan. Trường hợp tối hậu có thể quyết định ở đây bởi thế chỉ duy chủ thể, và chính đó là ý nghĩa của tiếng "lương tâm" diễn tả: trong lãnh vực này chỉ có cá nhân, với những trực giác và cảm nghiệm của họ, mới có thể quyết định. Chàng Newman lại ý tức về lương tâm hoàn toàn ngược lại như thế. Đối với chàng, "lương tâm" nghĩa là khả năng con người nhận biết chân lý: khả năng nhìn nhận chính ở nơi những lãnh vực cần phải quyết định trong đời sống của chàng - tôn giáo và luân lý - một sự thật, chân lý. Đồng thời lương tâm - khả năng của con người trong việc nhận biết chân lý - vì thế áp đặt lên chàng trách nhiệm cần phải tiến đến chân lý, cần phải tìm kiếm chân lý và tùy thuộc vào chân lý khi nào chàng tìm thấy chân lý. Lương tâm vừa là khả năng nhận biết chân lý vừa là việc tuân phục chân lý, một chân lý tỏ mình ra cho bất cứ ai tìm kiếm nó bằng tấm lòng cởi mở. Con đường nơi những cuộc hoán cải của chàng Newman là con đường của lương tâm - không phải là một con đường tự định một cách chủ quan, trái lại, là con đường thuận phục chân lý đang từ từ mở ra cho chàng. Cuộc hoán cải thứ ba của ngài, về với Công giáo, đòi ngài phải bỏ hều như hết mọi sự thân thương và quí báu dối với ngài: sở hữu, nghề nghiệp, cấp bậc về hàn lâm, các liên hệ về gia đình và nhiều bạn hữu. Việc hy sinh này đòi ngài cần phải tiến xa hơn nữa, bằng việc tuân phục chân lý, theo lương tâm của ngài. Hồng Y Newman đã luôn ý thức rằng mình có một sứ vụ đối với Anh quốc. Thế nhưng, nơi khoa thần học Công giáo thời của ngài, tiếng nói của ngài khó có thể được lắng nghe. Nó là những gì quá xa lạ trong một bối cảnh của hình thức đang thịnh hành về tư tưởng thần học và lòng đạo đức. Vào tháng Giêng năm 1863, ngài đã viết trong cuốn hồi ký của ngài những lời buồn thảm này: "Là một người Tin Lành, tôi cảm thấy tôn giáo của tôi ảm đạm, chứ không phải là đời sống của tôi - thế nhưng, là người Công giáo, đời sống của tôi lại buồn thảm, chứ không phải là tôn giáo của tôi". Ngài đã chưa đạt tới giờ khắc trở thành một nhân vật nổi tiếng. Bằng lòng khiêm nhượng và tuân phục tối tăm, ngài đã phải chờ cho tới khi sứ điệp của ngài được tiếp nhận và hiểu biết. Trong vấn đề ủng hộ cho quan niệm của Đức Hồng Y Newman về lương tâm hợp với kiến thức chủ quan tân tiến, người ta thường trích một bức thư, trong đó ngài nói rằng - nếu ngài cần phải tỏ ra nâng chén - thì trước hết sẽ uống chén lương tâm của ngài rồi mới tới chén Giáo Hoàng. Thế nhưng, nơi lời phát biểu này, "lương tâm" không tiêu biểu cho phẩm tính hoàn toàn liên kết với cái trực giác chủ quan. Nó là một bày tỏ của khả đạt tính của chân lý và của năng lực liên kết với sự thật: cái căn bản của nó là như thế. Nâng chén thứ hai có thể dâng cho Giáo Hoàng vì phận vụ của ngài đòi phải tuân phục chân lý.  

(Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Bài Nhận Định Tất Niên Tình Hình Giáo Hội nhân dịp Chúc Mừng Giáng Sinh 2010 Giáo Triều Rôma Thứ Hai 20/12/2010)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2010/december/documents/hf_ben-xvi_spe_20101220_curia-auguri_en.html  

 

 

 

 

 

 

Tân Chân Phước John Henry Newman

(1801-1890)

 

 

Cuộc đời, hoạt động và sự nghiệp

 

Newman được sinh ra ở Luân Đôn Anh quốc, là đứa con đầu lòng của một gia đình có 3 trai và 3 gái. Cha là John Newman, một ngân hàng gia, và mẹ là Jemima Fourdrinier.

 

Vào năm 7 tuổi, Newman được gửi đi học ở Great Ealing School của Tiến Sĩ George Nicholas. Năm 14 tuổi, Newman đã đọc các tác phẩm có tính chất hoài nghi của Thomas Paine, David Hume và có lẽ cả của Voltaire.

 

Vào năm 15 tuổi, hay vào mùa thu năm 1816, trong năm học cuối cùng ở trường, Newman đã trở lại với những ấn tượng về tín điều đọc thấy từ các sách vở thuộc truyền thống cải cách của Calvin. Newman đã trở thành một tín đồ theo phái thệ phản Calvin và có những chủ trương tiêu biểu như giáo hoàng là tên phản kitô theo chiều hướng của Thomas Newton cũng như cuốn Lịch Sử về Giáo Hội Chúa Kitô của Joseph Milner.

 

Ngày 13/6/1824 Newman được thụ phong phó tế ở Vương Cung Thánh Đường Chúa Kitô Oxford. Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi 29/5/1825 Newman được thụ phong linh mục trong Giáo Hội Chúa Kitô.

 

Newman 23 tuổi - bài giảng đầu tiên về Chúa Ba Ngôi

 

Năm 1828, mặc dù Newman theo danh xưng vẫn còn liên hệ với tín đồ phái Evangelicals, nhưng quan điểm của ngài dần dần thiên về chiều hướng giáo hội hơn. Vào mùa hè năm ấy, ngài đã thực hiện việc nghiên cứu thấu đáo các Giáo Phụ của Giáo Hội.

 

Vào Tháng 12/1832, trong chuyến hành trình Địa Trung Hải, Newman đã viết một bức thư về nhà diễn tả Rôma như là “một nơi tuyệt vời nhất trên Trái Đất”, nhưng đạo Công Giáo Rôma như là một thứ “đa thần, thoái hóa và ngẫu tượng”.

 

Tháng 8/1833, Newman viết cuốn Tracts for the Times, một tác phẩm mà các phần tử thuộc Phong Trào Oxford được mở màn vào ngày 9/7/1833 mang danh là Tractarian, một tác phẩm viết để bảo đảm cho Giáo Hội Anh Quốc một nền tảng vĩnh viễn về tín lý và kỷ luật. Vào năm 1836 Newman đồng thời còn tung ra những bài diễn thuyết để bênh vực chủ trương và tính cách “trung lộ” (via media – middle way) của Anh Giáo, một đạo giáo ở giữa Công Giáo Rôma và phong trào Thệ Phản thông dụng.  

 

Newman đã gây ảnh hưởng cao độ ở Oxford vào năm 1839. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về lạc thuyết Nhất Tính (monophysitism), Newman đã cảm thấy nghi ngờ về chủ trương của Anh giáo liên quan tới những nguyên tắc về thẩm quyền của giáo hội. Thế rồi sau khi đọc bài viết về “Chủ Trương của Anh Giáo” của Nocholas Wiseman trên tờ Dublin Review, trong đó những lời của Thánh Augustine thành Hippo chống lại bè rối Donatists đã gây tác dụng mãnh liệt nơi nhà học giả Anh giáo này, như những gì được bày tỏ trong cuốn Apologia phần 5 như sau:

 

“Những lời của Thánh Âu Quốc Tinh đã tác động tôi mãnh liệt như chưa bao giờ tôi cảm thấy bởi những lời nào trước đó… chúng như là lời ‘Tolle, lege – Tolle, lege’ của một con trẻ đã khiến cho chính Thánh Âu Quốc Tinh phải trở lại vậy. “Securus judicat orbis terrarum – phán quyết của thế gian là những gì cuối cùng!”. Qua những lời sâu xa này của Vị Giáo Phụ xưa kia ấy, khi giải thích và gồm tóm tiến trình dài lâu và khác nhau của lịch sử giáo hội, thì khoa thần học ‘Via Media - Trung Lộ’ này hoàn toàn tan biến”. 

 

Tuy nhiên, Newman đã tiếp tục công việc của mình như là một tay bút chiến thuộc Anh giáo thiên Công giáo (High Anglican) cho đến khi ngài phát hành tập Tract 90 vào năm 1841. Đây là tập cuối cùng trong loạt bài viết, khảo sát cặn kẽ về 39 Khoản (Thirty-Nine Articles), cho rằng những phủ định của những điều khoản này không trực tiếp chống lại kinh tin kính chính thức của Giáo Hội Công Giáo Rôma mà chỉ chống lại những sai lầm và quá đáng thông dụng mà thôi. Tập sách này đã gây căm phẫn ở Oxford.

 

Thế là Newman đã coi chủ trương của tín hữu Anh giáo giống như chủ trương của thành phần bán Bè Rối Arian trong cuộc tranh luận về lạc thuyết Arian. Việc liên kết chức giám mục Anh giáo và Luthero được thỏa thuận ở Giêrusalem đối với Newman là một chứng cớ nữa cho thấy Giáo Hội Anh quốc không phải là giáo hội tông truyền.

 

Newman bắt đầu được biến đổi

 

Vào năm 1842, Newman rút về Littlemore và sống một đời ở những điều kiện tương tự như đời sống đan tu với một số nhỏ môn đề của mình, như John Debree Dalgrairns, William Lockhart, Ambrose St. John và Frederick Oakeley. Những ngôi nhà trú ngụ và làm việc của nhóm này được Newman gọi là “Nhà của Đức Maria ở Littlemore” (giờ đây được gọi là Học Viện Newman – Newman College).

 

Tại đây, Newman ủy thác cho một số môn đệ của mình viết về đời sống của các vị thánh Anh quốc, còn ngài dồn giờ vào việc hoàn tất Tiểu Luận về việc phát triển tín lý Kitô giáo. Vào Thánh 2/1843, ngài đã phổ biến như những gì chính thức rút lại tất cả những gì khắc nghiệt ngài đã nói phạm tới Rôma. Vào Tháng 9/1843, ngài đã tung ra bài giảng cuối cùng về Anh giáo ở Littlemore.

 

Hai năm trôi qua trước khi Newman được tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo Rôma ngày 9/10/1845, qua linh mục Dominic Barberi, một tu sĩ người ÝDòng Passionist tại Học Viện ở Littlemore. Hậu quả gây ra cho bản thân của ngài từ việc trở lại Công giáo này thật lớn lao, ở chỗ, ngài đã bị mất đi các mối liên hệ với gia đình và bạn hữu, những thái độ đối với ngài trong cộng đồng Oxford của ngài trở nên xung đột.

 

Vào Tháng 2/1846, Newman rời Oxford đến Oscott là nơi Đức Giám Mục Wiseman bấy giờ làm đại diện tòa thánh Rôma ở khu vực Midland cư ngụ. Và vào tháng 10 Newman đã đi Rôma, nơi ngài được Đức Hồng Y Giacomo Filippo Fransoni truyền chức linh mục và được Đức Thánh Cha Piô IX cấp bằng D.D. (Doctor of Divinity – Tiến Sĩ Thần Học) cho.

 

Cuối năm 1847, Cha Newman trở về Anh quốc như một tu sĩ Dòng Oratorian do Thánh Philip Neri thành lập và đầu tiên ngài cư ngụ ở Maryvale, rồi ở Học Viện Thánh Wilfrid, đoạn ở Birmingham, sau cùng ở Edgbaston với một cuộc sống ẩn dật gần 40 năm, trừ 4 năm ở Ái Nhĩ Lan.

 

Trước khi ngài cư ngụ ở Edgbaston, ngài đã cùng với vị bề trên của mình là Cha Frederick William Faber thiết lập London Oratory. Tại đây, vào năm 1851, Cha Newman đã thực hiện một tiến trình diễn thuyết về Vị Thế Hiện Tại của Tìn Hữu Công Giáo ở Anh Quốc, những bài diễn thuyết hầu như bị báo chí coi thường, những bài diễn thuyết đã phân tích dài dòng các quan điểm truyền thống của Công giáo được tín đồ Thệ Phản nắm giữ. Ở bài thứ năm, ngài đã chống lại những lời nói phản Công giáo của Giacinto Achilli, một tu sĩ xuất tu Dòng Đaminh, một con người bị ngài cho thấy có nhiều hành động vô luân. Ngài đã bị tội phỉ báng vào năm 1852 và phải phạt 100 Anh kim, chưa kể luật sư phí biện hộ của ngài lên đến 14 ngàn Anh kim. Số tiền liên quan tới vụ án này đã được quần chúng quyên góp chẳng những thanh toán đầy đủ mà còn dư để mua một mảnh đất nhỏ ở Rednal trên Lickey Hills, bao gồm một nguyện đường và một nghĩa trang là nơi sau này trở thành chốn yên nghỉ đời đời của ngài.

 

Vào năm 1854, theo lời yêu cầu của các vị Giám Mục Công Giáo Ái Nhĩ Lan, Cha Newman đã đến Dublin làm việc trưởng của Đại Học Đường Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan mới thành lập, hiện nay là Đại Học Viện Dublin – University College, Dublin (U.C.D). Trong thời gian này ngài đã thành lập Hội Văn Chương và Lịch Sử. Sau 4 năm, ngài đã về hưu. Ngài đã phát hành một tập sách tổng hợp các bài thuyết trình dưới nhan đề Ý Nghĩ về Một Đại Học Đường, một tập sách chất chứa một số bài viết tác dụng nhất của ngài.

 

Vào năm 1858, Cha Newman có dự án thành lập một nhà chi nhánh Oratory ở Oxford; thế nhưng dự án ấy bị Cha Henry Edward Manning và những người khác phản đối như thể muốn dụ dỗ những người Công giáo gửi con cái của mình đến đại học này, bởi đó dự án của cha bị bãi bỏ. Tuy nhiên, từ khi người Công giáo bắt đầu đến học ở Oxford từ thập niên 1860 trở đi, một câu lạc bộ Công giáo được thành lập, và vào năm 1888 nó được đổi tên là Hội Newman Đại Học Oxford để ghi nhận các nỗ lực của ngài làm cho giới Công giáo ở thành phố đại học ấy. Oxford Oratory trên 100 năm sau cũng được thành lập vào năm 1993.

 

Vào năm 1862, Cha Newman bắt đầu sửa soạn viết tiểu sử của mình cùng với những ghi nhớ để làm sáng tỏ sự nghiệp của mình. Thời cơ đã đến vào Tháng 1/1864, khi cha bị Charles Kingsley tấn công, và cuộc tấn công bằng văn tự này đã bị ngài phản hồi, trước hết bằng một tập sách nhỏ (phát hành năm 1864 và tái bản năm 1913) liên quan tới vấn đề Tiến Sĩ Newman có quả thực cho Sự Thật không phải là một nhân đức hay chăng, và sau nữa bằng cuốn Apologia Pro Vita Sua.

 

Vào thời điểm của Công Đồng Chung Vaticanô I (1869-1870), Cha Newman tỏ ra do dự về việc chính thức công bố tín điều Giáo Hoàng vô ngộ, vì nghĩ rằng chưa đến thời điểm thích hợp của nó, nhưng ngài không tỏ ra dấu hiệu bất mãn nào khi tín điều này được tuyên bố và biện hộ cho “nguyên tắc giảm thiểu” bao gồm việc giới hạn một ít điều nào đó thôi trong tín điều giáo hoàng vô ngộ này. Về sau, trong bức thư gửi cho Công Tước ở Norfolk, Cha Newman đã khẳng định rằng ngài luôn tin vào tín lý này và chỉ sợ hậu quả gây ngăn trở bởi việc tuyên tín này nơi vấn đề trở lại căn cứ vào những khó khăn về lịch sử đã từng thấy.

 

Vào năm 1878, học viện cũ của ngài đã chọn ngài là đồng chí danh dự, và ngài đã tái viếng thăm Oxford sau khoảng thời gian 32 năm, vào chính ngày Đức Piô IX qua đời, vị giáo hoàng đã không tin tưởng ngài, nhưng Đức Lêô XIII được Công Tước ở Norfolk và những người giáo dân khác khuyên nên phong cho Cha Newman làm hồng y, dù vị linh mục này không phải là linh mục hay ở Rôma. Cha Newman đã được chấp nhận tước hồng y vào Tháng 2/1879 và sau 3 tháng được phong tước này vào ngày 12/5. Khẩu hiệu khi nhận tước hồng y của ngài là “lòng nói với lòng – Cor ad cor loquitur”, câu khẩu hiệu này cũng được ghi trên tấm khăn phủ quan tài của ngài. Ngoài ra, theo ý của ngài, trên mộ bia của ngài phải có câu sau đây: “Ex umbris et imaginibus in veritatem – Từ tối tăm và ảo ảnh tiến vào chân lý”.

 

Đức Hồng Y John Henry Newman

 

Cuộc đời 89 tuổi của ngài đã để lại 33 tác phẩm, 11 cuốn trong thời gian ngài còn theo Anh giáo, đặc biệt nhất là cuốn Tracts for the Times (1833–1841) và cuốn Lectures on Justification (1838), và 22 cuốn sau khi đã trở lại Công giáo, trong đó có 5 cuốn nổi tiếng sau đây: Essay on the Development of Christian Doctrine (1845); Retractation of Anti-Catholic Statements (1845); Idea of a University (1852 and 1858); Apologia Pro Vita Sua (autobiography– 1866, 1865) và An Essay in Aid of a Grammar of Assent (1870).

 

Đức Hồng Y Newman khi gần qua đời

 

Mộ của ngài được khai quật lên vào ngày 2/10/2008 để mang hài tích của ngài sang một phần mộ ở bên trong Birmingham Oratory (một điều hoàn toàn ngược lại với ý muốn của ngài), trong thời gian án phong thánh của ngài đang được cứu xét. Tuy nhiên, người ta không tìm thấy một dấu vết nào hài tích của ngài, một sự kiện có thể đã bị gây ra bởi quan tài bằng gỗ và việc chôn tàng ở ngay nơi ẩm thấp. Ngài đã được trở thành Đấng Đáng Kính năm 1991 và một phép lạ đã được công nhận nhờ lời chuyển cầu của ngài, nên ngài đã được phong chân phước ngày Chúa Nhật 19/9/2010 trong chuyến tông du 4 ngày (16-19/9/2010) của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, vị đã công nhận .

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tóm dịch tiểu sử từ mạng điên toán toàn cầu

http://en.wikipedia.org/wiki/John_Henry_Newman

 

 

Được Phong Chân Phước

 

Phỏng vấn trên máy bay Thứ Năm 16/9

 

Cha Lombardi: Tâu Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y Newman hiển nhiên là vị rất quan trọng đối với Đức Thánh Cha. Vì Đức Hồng Y Newman mà Đức Thánh Cha đã thực hiện một việc ngoại lệ khi chủ sự việc phong chân phước cho ngài. Đức Thánh Cha có nghĩ rằng việc gợi lại ngài có thể giúp thắng vượt những chia rẽ giữa các tín đồ Anh giáo và Công giáo hay chăng? Lại nữa Đức Thánh Cha có ý nhấn mạnh hơn đến những khía cạnh nào về con người của ngài?

 

Đức Thánh Cha: Một đàng, Đức Hồng Y Newman trước hết là một con người tân tiến, một người đã sống với tất cả vấn đề của những gì là tân tiến; ngài đã đương đầu với vấn đề của chủ nghĩa bất khả thần tri (agnosticism), vấn đề không thể biết được Thiên Chúa, vấn đề tin tưởng. Ngài là một con người suốt đời là một cuộc hành trình, một cuộc hành trình mà ngài đã chấp nhận để chân lý biến đổi trong một cuộc tìm kiếm được đánh dấu bằng một tấm lòng đầy chân thành và rất cởi mở, nhờ đó ngài nhận biết hơn nữa và tìm thấy cùng chấp nhận con đường dẫn đến sự sống chân thực. Cái tân tiến bên trong này, nơi con người của ngài cũng như nơi đời sống của ngài, cho thấy cái tân tiến nơi đức tin của ngài. Không phải là một thứ đức tin của những công thức thuộc các thế đại trong quá khứ; nó là một đức tin rất riêng tư, một đức tin được sống, chịu khổ và được tìm thấy trên một con đường dài của việc canh tân và hoán cải. Ngài là một con người của đại văn hóa, một con người lại chia sẻ với thứ văn hóa ngờ vực của chúng ta ngày nay, ở vấn nạn chúng ta có thể biết được hay chăng một cái gì đó chắc chắn liên quan tới sự thật về con người và hữu thể của họ, và làm sao chúng ta có thể tiến tới những khả thể đồng qui. Ngài là một con người có một nền văn hóa lớn lao và một kiến thức dồi dào về các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội. Ngài đã học hỏi và đổi mới cái gốc tích nội tại của niềm tin và đã nhận thấy hình thức cùng cấu trúc nội tại của nó. Ngài là một con người của thứ linh đạo cao cả, của nhân bản, của nguyện cầu, bằng mối liên hệ sâu xa với Thiên Chúa, một liên hệ riêng tư, và vì thế là một mối liên hệ sâu xa với dân chúng thuộc thời đại của ngài và của chúng ta. Vậy tôi muốn nêu lên 3 yếu tố này: yếu tố tân tiến nơi đời sống của ngài cùng với những ngờ vực và trục trặc như của chúng ta ngày nay; yếu tố thứ hai là thứ văn hóa cao cả của ngài, kiến thức của ngài về các kho tàng văn hóa loài người, tinh thần cởi mở cho việc thường xuyên tìm kiếm, thường xuyên canh tân đổi mới, và linh đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống với Thiên Chúa; những yếu tố này khiến cho con người này trở thành một tầm vóc ngoại lệ cho thời đại của chúng ta. Đó là lý do tại sao ngài như là một vị Tiến Sĩ của Giáo Hội đối với chúng ta và cho tất cả chúng ta, đồng thời cũng là một chiếc cầu nối giữa tín hữu Anh giáo và Công giáo”.

 Với Đức Tổng Giám Mục Canterbury Thứ Sáu 17/9 ở Lambeth Palace

 

“Nơi hình ảnh của Đức Hồng Y John Henry Newman, vị sẽ được phong chân phước vào Chúa Nhật, chúng ta mừng một vị giáo sĩ có nhãn quan về giáo hội được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm Anh giáo của mình và được chín mùi qua nhiều năm làm thừa tác viên thụ phong trong Giáo Hội của Anh quốc. Ngài có thể dạy chúng ta những nhân đức cần cho phong trào đại kết: một đàng ngài được tác động theo lương tâm của mình, cho dù có phải trả giá to lớn cho bản thân mình; đàng khác, thái độ ngài vẫn tỏ ra ân cần thân tình với các người bạn xưa kia của mình đã dẫn ngài đến chỗ cùng họ xem xét, với một tinh thần Ái Nhĩ Lan, những vấn đề khác biệt, bằng một lòng sâu xa mong ước hiệp nhất trong đức tin”.

 

Thứ Bảy 18/9 ở Hyde Park – London

 

“… Như anh chị em biết, Đức Hồng Y Newman đã lâu có một tầm ảnh hưởng quan trọng trong đời sống và tư tưởng của tôi, như ngài đã ảnh hưởng đến rất nhiều người ở bên ngoài những hải đảo này. Thảm kịch của đời sống Đức Hồng Y Newman mời gọi chúng ta hãy xem xét lại đời sống của chúng ta, nhìn nó nơi chân trời bao rộng của dự án Thiên Chúa, và gia tăng mối hiệp thông với Giáo Hội ở hết mọi thời và hết mọi nơi: một Giáo Hội của các vị tông đồ, một Giáo Hội của các vị tử đạo, một Giáo Hội của các thánh, một Giáo Hội Đức Hồng Y Newman mến yêu và hiến cả đời mình cho sứ vụ của Giáo Hội.

 

“…. Tối hôm nay, trong bối cảnh của việc cúng ta cầu nguyện chung, tôi muốn chia sẻ với anh chị em về một ít khía cạnh trong đời sống của Đức Hồng Y Newman được tôi cho rằng rất liên quan tới đời sống của chúng ta là thành phần tín hữu cũng như đến đời sống của Giáo Hội ngày nay.

 

“Tôi muốn bắt đầu bằng việc nhắc lại rằng Đức Hồng Y Newman, căn cứ vào trình thuật của chính ngài, đã truy nguyên tất cả giòng đời của mình từ một cảm nghiệm hoán cải mãnh liệt ngài có được khi còn trẻ. Nó là một cảm nghiệm trực tiếp về sự thật của lời Chúa, về thực tại khách quan của mạc khải Kitô giáo được truyền lại trong Giáo Hội. Cảm nghiệm này, vừa tôn giáo vừa tri thức, đã tác động ơn gọi của ngài trong việc trở thành một thừa tác viên của Phúc Âm, đã soi động nhận thức của ngài về nguồn giáo huấn thẩm quyền của Giáo Hội Chúa, và khích động lòng nhiệt thành của ngài đối với việc canh tân đời sống Giáo Hội nơi việc trung thành với truyền thống tông đồ. Vào cuối đời của mình, Đức Hồng Y Newman đã diễn tả hoạt động của đời ngài như là một cuộc đối chọi với khuynh hướng đang gia tăng cho tôn giáo như là một vấn đề thuần riêng tư và chủ quan, một vấn đề của ý nghĩ cá nhân. Đó là bài học đầu tiên chúng ta có thể học được từ đời sống của ngài: trong thời đại của chúng ta đây, khi đang có một chủ nghĩa tương đối về tri thức và luân  lý đang đe dọa làm cạn kiệt nhựa sống chính những nguồn mạch của xã hội chúng ta, Đức Hồng Y Newman nhắc nhở chúng ta rằng, là những con người nam nữ được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên để biết được chân lý, để tìm thấy nơi sự thật đó cái tự do tối hậu của chúng ta cùng với tất cả những gì làm hoàn trọn các khát vọng sâu xa nhất của con người chúng ta. Tóm lại, chúng ta được dựng nên để nhận biết Chúa Kitô, Đấng chính là ‘đường, là sự thật và là sự sống’ (Jn 14:6).

 

“Đời sống của Đức Hồng Y Newman cũng dạy chúng ta rằng việc say mê tìm kiếm chân lý, lòng chân thành về tri thức và việc hoán cải chân thực là những gì đắt giá. Sự thật giải phóng chúng ta không thể nào bị cầm giữ cho riêng chúng ta; sự thật cần đến chứng từ, nó tha thiết muốn được lắng nghe, để rồi quyền năng thắng đoạt của sự thật xuất phát từ chính mình chứ không phải từ tài hùng biện hay các lập luận của con người bày tỏ nó… Trong thời đại của chúng ta đây, cái giá cần phải trả cho lòng trung thành với Phúc Âm không còn là những gì đang lơ lửng, hăm dọa và bủa vây, nhưng thường là tình trạng bị sa thải, nhạo cười hay chế giễu. Tuy nhiên, Giáo Hội không thể lùi bước mà không thực hiện việc loan truyền Chúa Kitô và Phúc Âm của Người như là một sự thật cứu độ, nguồn mạch cho hạnh phúc tối hậu của cá nhân chúng ta, và như là nền tảng cho một xã hội công chính và nhân bản.

 

“Sau hết, Đức Hồng Y Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đã chấp nhận sự thật của Chúa Kitô và hiến cuộc đời của chúng ta cho Người thì không có vấn đề tách biệt giữa cái chúng ta tin tưởng và cách thức chúng ta sống cuộc đời của mình. Tất cả những gì chúng ta nghĩ tưởng, nói năng và tác hành cần phải hương đến vinh quang của Thiên Chúa và việc loan truyền Vương Quốc của Ngài. Đức Hồng Y Newman đã hiểu được điều ấy, và đã trở thành một nhà tranh đấu mạnh mẽ cho vai trò ngôn sứ của thành phần giáo dân Kitô giáo. Ngài đã thấy rõ ràng rằng chúng ta không chấp nhận sự thật bằng một tác động thuần tri thức cho bằng ôm ấp sự thật bằng một năng lực thiêng liêng là những gì thấu tới tận thâm cung của hữu thể chúng ta. Sự thật được truyền đạt không chỉ bằng giáo huấn chính thức, quả thực là quan trọng, nhưng cũng bằng cả chứng từ của cuộc đời được sống một cách nguyên tuyền, trung thành và thánh đức nữa; những ai sống trong sự thật và bởi sự thật thì theo bản năng của mình nhận thấy ngay những gì là sai trái, và vì sai trái, chúng trở thành độc hại cho sự mỹ và sự thiện là những gì giúp tỏa chiếu ánh quang rạng ngời của chân lý, veritatis splendor.

 

“… Nhờ đức tin chúng ta mới thấy được rằng lời Chúa như đèn soi bước chúng ta đi và là ánh sáng soi đường chúng ta bước (cf Ps 119:105). Đức Hồng Y Newman, như vô vàn các vị thánh trước ngài trên con đường làm Kitô hữu môn đệ, đã dạy rằng ‘ánh sáng tốt lành’ của đức tin dẫn chúng ta tới chỗ nhận biết sự thật về bản thân mình, về phẩm vị của chúng ta là con cái của Thiên Chúa, và số phận cao vời đang đợi chờ chúng ta ở trên trời. Bằng việc để cho ánh sáng đức tin này chiếu tỏa trong tâm hồn của mình, cũng như bằng việc gắn bó với ánh sáng ấy qua việc chúng ta hằng ngày kết hợp với Chúa trong nguyện cầu và tham dự vào các bí tích ban sự sống của Giáo Hội, chính chúng ta trở thành ánh sáng cho những người chung quanh chúng ta; chúng ta thực thi ‘vai trò ngôn sứ’ của mình; nhờ đó thường lôi kéo, cho dù không biết, người ta tiến đến gần Chúa và sự thật của Người hơn nữa. Không sống đời sống cầu nguyện, không được ân sủng của các bí tích biến đổi nội tâm, theo Đức Hồng Y Newman nói, chúng ta không thể ‘chiếu tỏa Chúa Kitô’; chúng ta chỉ là những thứ ‘phèng la’ (1Cor 13:1) trong một thế giới đầy những náo động và hỗn độn, đầy những đường lối sai lạc chỉ gây tan nát tâm can và mơ tưởng hão huyền.

 

“Một trong những suy niệm được yêu chuộng nhất của vị Hồng Y này có những lời sau đây: ‘Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi để làm một việc nhất định cho Ngài. Ngài đã ủy thác cho tôi một việc làm mà Ngài không trao phó cho người khác’ (Meditations on Christian Doctrine). Đến đây chúng ta thấy chủ trương hiện thực Kitô giáo tốt lành của Đức Hồng Y Newman, một điểm gặp gỡ bất khả tránh của đức tin và đời sống. Đức tin là để sinh hoa kết trái nơi việc biến đổi thế giới của chúng ta bằng quyền năng của Thánh Linh tác động nơi đời sống và hoạt động của các tín hữu. Không ai thực tiễn nhìn vào thế giới của chúng ta hôm nay lại có thể nghĩ rằng Kitô hữu có thể tiếp tục với việc làm như thường, mà lại không để ý gì tới cuộc khủng hoảng sâu xa về đức tin đang chi phối xã hội của chúng ta, hay chỉ tin tưởng rằng gia sản của các thứ giá trị được truyền qua bao thế kỷ Kitô giáo sẽ tiếp tục tác động và hình thành tương lai của xã hội chúng ta. Chúng ta biết rằng ở vào những lúc khủng hoảng và biến động Thiên Chúa đã từng gửi đến những vị đại thánh và tiên tri để canh tân Giáo Hội và xã hội Kitô giáo; chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và chúng ta xin Ngài tiếp tục hướng dẫn…”

 

Lễ Phong Chân Phước ở Cofton Park of Rednal – Birmingham, Chúa Nhật 19/9/2010

 

“Khẩu hiệu Cor ad cor loquitur hay ‘lòng nói với lòng’ của Đức Hồng Y Newman cống hiến cho chúng ta một minh thức về kiến thức của ngài đối với đời sống Kitô giáo như là một ơn gọi nên thánh, một ơn gọi được cảm thấy như là một ước muốn sâu xa của con tim con người muốn thân tình hiệp thông với Con Tim Thiên Chúa. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng sống trung thành với việc cầu nguyện dần dần biến đổi chúng ta nên giống như Thiên Chúa. Như ngài đã viết ở một trong những bài giảng hay của mình, “một thói quen cầu nguyện, việc thực hành hướng về Thiên Chúa và thế giới vô hình ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp khẩn cấp – tôi muốn nói rằng cầu nguyện có những gì được gọi là một thứ hiệu quả tự nhiên trong việc thiêng liêng hóa và thăng hóa linh hồn. Một con người không còn là cái họ đã là trước đó; dần dần… họ hấp thụ một loạt những ý nghĩ mới mẻ, và được thấm đẫm các nguyên tắc mới mẻ” (Parochial and Plain Sermons, iv, 230-231).

 

“Phúc Âm hôm nay nói với chúng ta rằng không ai có thể làm tôi hai chủ (cf. Lk 16:13), và giáo thuyết của Chân Phước John Henry về cầu nguyện cho thấy rằng làm thế nào người Kitô hữu trung tín hoàn toàn được tiến đến chỗ phục vụ chỉ một vị Chủ Nhân duy nhất, Đấng mà chỉ duy mình Người mới có quyền đòi việc dấn thân vô điều kiện của chúng ta (cf Mt 23:10). Chân Phước Newman giúp chúng ta hiểu điều này có nghĩa là gì đối với cuộc sống hằng ngày của chúng ta: ngài nói với chúng ta rằng Vị Chủ Nhân thần linh của chúng ta đã ủy thác cho từng người chúng ta một việc làm đặc biệt, một ‘việc làm nhất định’, được chuyên biệt trao phó cho từng người. Ngài viết: ‘Tôi có sứ vụ của mình. Tôi là một móc nối trong một sợi xích, một liên hệ móc nối giữa những con người. Ngài đã không dựng nên tôi vô tích sự. Tôi sẽ hành thiện, tôi sẽ làm việc của Ngài; tôi sẽ là thiên thần hòa bình, là một giảng viên chân lý ở vị thế của mình… nếu tôi tuân giữ các giới huấn của Ngài và phục vụ Ngài theo ơn gọi của tôi’ (Meditations and Devotions, 301-2).

 

“Việc phục vụ nhất định Chân Phước John Henry Newman đã được kêu gọi liên quan tới việc áp dụng trí óc sắc bén của ngài và ngòi bút phong phú của ngài vào nhiều ‘đề tài của thời đại’ rất khẩn thiết. Những minh thức của ngài nơi mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, nơi vị thế quan trọng của tôn giáo được mạc khải ở xã hội văn minh, và nơi nhu cầu cần đến một đường lối bao rộng đối với việc giáo dục không những hết sức quan trọng đối với Victorian England, mà ngày nay còn tiếp tục tác động và soi sáng nhiều người trên khắp thế giới nữa. Tôi muốn đặc biệt trân trọng trước nhãn quan của ngài về việc giáo dục là những gì đã có công rất nhiều trong việc hình thành cái đặc tính làm tác lực cho những học đường và đại học Công giáo ngày nay. Mạnh mẽ chống lại với bất cứ đường lối suy giảm hay thực dụng nào, ngài đã tìm cách để đạt được một môi trường về giáo dục bao gồm cả vấn đề huấn luyện về tri thức, kỷ luật về luân lý và dấn thân về đạo giáo. Dự án thành lập một Đại Học Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan cống hiến cho ngài cơ hội để khai triển tư tưởng của ngài về chủ đề này, và tuyển tập các bài nói nhan đề Ý Nghĩ Về Đại Học được ngài xuất bản đề cao một lý tưởng mà tất cả những ai dấn thân vào việc huấn luyện về hàn lâm có thể tiếp tục học hỏi. Thật vậy, những thày cô dạy về đạo nghĩa làm sao có thể nêu lên cho mình được một mục đích nào tốt lành đẹp hơn là lời kêu gọi nổi tiếng của Chân Phước John Henry giành cho một người giáo dân thông minh và được học hỏi đàng hoàng: ‘Tôi muốn một người giáo dân, chứ không phải là kẻ ngạo mạn, không bừa bãi trong lời nói, không tranh luận, mà là những con người biết đạo giáo của mình, đi sâu vào nó, biết mình đang ở đâu, biết những gì mình chủ trương và không chủ trương, biết những gì mình tin tưởng vững vàng tới độ có thể chứng tỏ chúng, biết rất rõ về lịch sử để có thể bênh vực nó’” (The Present Position of Catholics in England, ix, 390)….

 

Lời từ biệt của Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc ngỏ cùng Đức Thánh Cha Chúa Nhật 19/9/2010 ở Phi Trường Quốc Tế Birmingham:

 

“Một thách đố cho tất cả chúng ta đó là theo lương tâm của mình để hỏi không phải là những gì chúng ta có quyền mà là những gì chúng ta có trách nhiệm? Để hỏi không phải là những gì cho chính bản thân chúng ta mà là những gì chúng ta có thể làm cho những người khác?

 

“Đức Hồng Y Newman, vị đã được phong chân phước ở Birmingham sáng hôm nay, có lần đã nói rằng một việc nhỏ bé được thực hiện bởi một người nào đó giúp ‘xoa dịu bệnh nhân hay túng thiếu’ hay bởi một người nào đó tỏ ra ‘tha thứ cho kẻ thù địch’ cho thấy đức tin thực sự hơn là được tỏ ra bởi ‘cuộc đàm đạo về đạo giáo lưu loát nhất’ hay bởi ‘kiến thức sâu xa nhất về Thánh Kinh’.

 

“Trong việc đóng góp lớn lao của mình cho triết lý của nền giáo dục cao học, Đức Hồng Y Newman đã nhắc nhở thế giới về nhu cầu giáo dục để sống chứ không chỉ cho công ăn việc làm.

 

“Vấn đề giáo dục bao rộng để sống đã quan trọng hóa, căn cứ vào những trách nhiệm của mỗi một người trong xã hội, những đòi buộc và những cơ hội xuất phát từ cái được Đức Hồng Y Newman diễn tả như là ‘mối liên kết chung của sự hiệp nhất’ mà tất cả chúng ta tham phần”.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tuyển dịch từ mạng điên toán toàn cầu

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2010/index_regno-unito_en.htm